Thursday, January 29, 2009

Nói chuyện với nhà báo Đỗ Ngọc Yến - 4

Sử gia Mỹ Việt và cuộc chiến Việt Nam
Đỗ Tăng Bí ghi

Những tài liệu chính về Cuộc Chiến Việt Nam được lưu trữ tại nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở 4 kho chính tại Hà Nội, Trung Quốc, Nga và Hoa Kỳ. Rất nhiều sử gia trên thê giới đã viết về cuộc chiến này, không biết những tài liệu họ dùng chính xác đến đâu, tuy nhiên hàng núi tài liệu từ 4 nơi trên vẫn còn là điều bí ẩn. Cho đến bây giờ, kho ở Hoa Kỳ đã được giải mật một phần. Còn Hà Nội? Bắc Kinh? Chúng tôi mang chuyện này ra hỏi anh Đỗ Ngọc Yến, nhất là về nội dung của danh từ “Đông Dương”.

ĐTB. – Hiện nay người ta dùng nhiều danh từ Đông Nam Á và ít dùng danh từ Đông Dương, dĩ nhiên phạm vi lãnh thổ của hai danh từ khác nhau, nhưng rõ ràng ý niệm về Đông Dương không còn được nhắc đến nhiều nữa. Trước khi từ đó đi vào mai một, đề nghị anh Yến nói về nguồn gốc danh từ Indochine, và tại sao lại được dịch thành Đông Dương.
ĐNY. – Trước khi đi vào chuyện nguồn gốc của từ Đông Dương, tôi cần lưu ý quí vị ở điểm này: Sau 1975, thế giới nói đến những người tỵ nạn chúng ta thường dùng chữ Indochinese Refugee. Họ dùng chữ này cho tiện khi gọi chung các người tỵ nạn Việt Nam, Ai Lao, Cambodge, và cả Trung Hoa nữa. Như thế nội dung chữ Indochine cũng có thay đổi. Thực ra ngôn ngữ cũng có đời sống như một sinh vật. Từ khi ra đời, nguồn gốc ra sao, người ta dùng nó mỗi thời một khác theo dụng ý, do đó tuỳ người, tuỳ trường hợp có sự giải thích khác nhau. Thí dụ người Trung Hoa gọi ta là An Nam, chúng ta tự xưng là Việt Nam.
Bây giờ tại hải ngoại, chúng ta thấy tất cả những danh từ trong phần lớn tài liệu khi nói đến chiến tranh Việt Nam hay nói về Công Sản, họ vẫn hay dùng chữ Indochine War, Indochinese War. Chúng ta nghiệm ra rằng mỗi tác giả, mỗi loại sách, mỗi quốc gia khi dùng các chữ này đều có cân nhắc. Chúng ta thì nhất định chỉ dùng chữ Việt Nam cho nội dung trên, và coi chữ Indochine như một qui ước quốc tế mà thôi.

ĐTB. – Nếu thế xin đặt câu hỏi thu hẹp hơn như thế này: Do đâu người Pháp dùng chữ Indochine và từ bao giờ. Lát nữa chúng ta sẽ xét xem người Trung Hoa dùng chữ này theo ý nghĩa nào.
ĐNY. – Phải trở lại với khung cảnh trí thức đầu thế kỷ này, người ta chưa bận rộn với ý niệm Việt Nam, trừ chính những người Việt Nam tiến bộ. Gọi là tiến bộ vì đa số người Việt lúc đó cũng bị ý niệm Indochina làm vong thân đi, cũng gọi theo cho tiện, theo kiểu những cán bộ về Đông Phương ở Mạc Tư Khoa lúc đó gọi khu vực này. Dần dần, người Việt Nam mới thấy ý niệm Indochina không phải là mình vì nó không phải là một dân tộc, không có ngôn ngữ chung, nó nói về một lãnh thổ và điều đó thuận tiện cho người cai trị mà thôi. Người tây phương quan tâm không phải là mảnh đất Việt Nam, mà họ tìm hiểu khu vực địa lý có thể giúp tiến vào miền nam Trung Hoa. Và họ thấy có hai con đường: sông Hồng Hà và ngược dòng Cửu Long.
Vế chữ Indochine, người Pháp hay dùng từ này nhiều nhất, và do người Pháp mà ra, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông, rồi 3 tỉnh miền Tây ở miền Nam Việt Nam. Phải đến năm 1945, từ Việt Nam mới được người Việt Nam dùngtrở lại.
Theo lý luận, danh từ này có từ thời sau Nã Phá Luân. Lúc đó Pháp là nước đi sang Á Châu nhiều nhất nên lập ra Hội Địa Dư Học, trụ sở tại Pháp. Từ đó, họ có nhu cầu đặt tên cho các vùng đất mới chiếm được. Các nhà hàng hải hỏi rằng vùng đất giữa Ấn Độ và Trung Hoa gọi là gì?, vì thế ông Hội Trưởng đặt tên cho mảnh đất này là Indochina. Ông ta là người Pháp gốc Đan Mạch, xứ sở của Viking, và giỏi về hàng hải. Tóm lại Hội Địa Dư Học đã cho viết chữ Indochina vào bản đồ từ đó.
ĐTB. – Nhưng khởi đầu chữ đó bao gồm lãnh thổ nào?
ĐNY. – Người Pháp coi Indochine là vùng đất khá rộng nên đã phân biệt France Indochine, gồm Tonkin, Annam, Cochinchine, Lào và Cambodge. Nhưng người đi du học Âu châu thì hiểu Indochina gồm cả Burmar, Thái Lan, và Mã Lai. Sau này nhiều người coi Burmar, Mã Lai thuộc phía Ấn Độ. Đến thờ 1945 do nhu cầu phối hợp quân sự giữa khối ABCD (American, British, China,Dutch) đánh nhau với Nhật, danh từ Đông Nam Á đã được dùng đến. Tuy nhiên danh từ French – Indochina đã được phổ biến và chỉ cho vùng đất chúng ta quen gọi là Đông Dương.
Cái thâm độc thứ nhất của Pháp khi dựng nên Indochine là bắt Việt Nam gắn với Lào và Cambodge và chia nước Việt Nam ra 3 phần. Họ thừa biết mối liên hệ giữa dân Việt và hai dân tộc kia chẳng có gì là tốt đẹp cả. Thâm độc thứ hai là dân Âu châu, sau đó là mọi người trên thế giới, khi đi qua vùng đất này đã không cần biết là dân tộc nào cả, do chữ French – Indochina. Người ta có thể tìm hiểu để biết rõ về Japan, China, India, nhưng không ai thèm tìm hiểu Indochina vì chữ đó chỉ có ý nghĩa về lãnh thổ chứ không phải dân tộc.
Ngay tại Hoa Kỳ, vị Tổng Thống Mỹ đầu tiên chú ý đến mảnh đất này một cách chiến lược nhưng không bao giờ dùng hai chữ “Việt Nam”. Vị Tổng Thống gần đây chủ trương mang chiến tranh vào Việt Nam, theo lời Bộ trưởng McNamara kể trong cuốn “The Respect” xuất bảnh cách đây hai năm, thì khi nói đến Việt Nam, các vị quan chức trong chính quyền đều rất mù mờ về Việt Nam: “Chúng tôi ngồi lại bàn vấn đề Việt Nam, nhưng từ Tổng Thống đến các Bộ Trưởng Quốc Phòng, Ngoại Giao, các Tướng đứng đầu như Tham Mưu Trưởng, Phụ tá an ninh,... dều không biết rành về Việt Nam. Về Nga Sô chúng tôi có những chuyên viên thượng thặng hay các vị Đại sứ cũ, nhưng về Việt Nam thì chẳng có ai. Có thể chỉ có vài chuyên viên ít ỏi như ông Lansdell thì lại ở cấp quá thấp, không có kinh nghiệm toàn cầu...”

ĐTB. – Vậy qua chuyện ngữ học này mà chúng ta biết rằng khi lâm chiến tại Việt Nam, người Mỹ không biết gì về đất nước, con người ở mảnh đất này. Cho đến khi nào thì họ biết rõ hơn?
ĐTB. – Hiện nay trên internet còn lưu giữ những bài viết về Việt Nam theo tình hình năm 1960, nhan đề hầu như được hiểu là “Người Mỹ không có hay thiếu những nhà chuyên môn về Việt Nam”. Từ lúc ông Roosevelt suy nghĩ về Việt Nam năm 1945, đến 1960 cả thảy 4 đời tổng thống dính dáng đến Việt Nam, mà nước Mỹ vẫn than thở không có ai hiểu biết về Việt Nam. Tổng Thống Einsenhower đưa ra cả một kế hoạch đầu tư vào Việt Nam từ 1954, dựng lên cả một Miền Nam, mà người ta vẫn than thở thiếu người hiểu biết Việt Nam. Và cho đến bây giờ vẫn còn có người xuất bản sách nói về Chiến Tranh Đông Dương.
Sự vô tình và không quan tâm đến đất nước con người, văn hoá Việt Nam vì trong đầu óc họ chỉ biết đến một mảnh đất là phòng tuyến bao vây Trung Cộng, là vùng đất tiêu thụ sản phẩm cho nền kinh tế Nhật Bản vừa được vực dậy. Người Mỹ đã nghĩ đến những điều xa xôi đó, trong khi những điều người Việt Nam tha thiết, đòi hỏi chính đáng là hãy coi chúng tôi là một dân tộc có lịch sử, một ngôn ngữ, một cá tính bình thường thì không ai thèm để ý. Chính vì thế mà thảm trạng của đết nước càng thêm nặng nề, người ngoài không hiểu chúng ta và chúng ta cũng không hiểu người ngoài, người Cộng sản ngoài Bắc cũng không hiểu được Trung Quốc, Nga sô, người quốc gia trong Nam thì cũng không hiểu được những người gọi là mang dân chủ, tự do đến cho chúng ta thực sự họ quan tâm đến điều gì, họ vì dân chủ tự do của chúng ta hay vì dân chủ tự do ở những nơi xa xôi kia.

ĐTB. – Vừa rồi anh Yến nói về quan niệm của người Pháp, nói chung của tây phương, về chữ Indochine. Về phía Trung Hoa, họ nghĩ thế nào về chữ đó?
ĐNY. – Về phía Trung Hoa, cũng chỉ cần đứng từ góc cạnh ngữ học, chúng ta đã thấy nhiều điều thú vị. Muốn diễn đạt chữ Indochine, họ phải dùng chữ “Ấn-Hoa”. Nhưng trong các tự điển Hán Việt ít ai dùng chữ Ấn Hoa, mà dùng chữ Đông Dương. Chuyện dịch Indochine thành Đông Dương rõ ràng là lệch lạc, vậy phải có hàm ý gì. Chuyện ngữ học này cho chúng ta biết được ý đồ, tham vọng ảnh hưởng của Trung Hoa tại khu vực Đông Nam Á. Từ chữ Đông Dương người ta nghĩ đến chữ Nam Dương. Nam Dương thì rõ ràng là vùng ở hẳn phía dưới này, Indonesia. Đông Dương là bể Đông, là Thái Bình Dương. Người Việt Nam gọi là bể đông, nhưng người Tàu gọi là Nam Hải, vùng biển nhỏ ở phía nam. Khi gọi Đông Dương là người Tàu cũng muốn gọi luôn Nam Dương là vùng đất nối dài của mình. Ngoài ra, khi dùng chữ Đông Dương thay vì dùng chữ Ấn Hoa, người Tàu cũng muốn cho người Pháp biết rằng họ không công nhận vùng đất này thuộc Pháp. Theo dõi lịch sử 30 năm chiến tranh 3 phe Việt – Tàu – Tây, trong đó có trận đánh Sơn Tây ở Việt Nam. Trận Sơn Tây (khoảng tháng 4 năm 1883) thu hút lực lượng Pháp đến hơn muời mấy ngàn quân, có đủ Tư lệnh Bộ binh, Hải quân, Thuỷ quân lục chiến. Trong thành Sơn Tây lúc đó có 4 lực lượng trấn thủ, ngoài lực lượng Việt Nam cón quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, quân Vân Nam của nhà Thanh, và một nhóm người Việt Nam. Vì lục đục giữa quân Việt Nam và các nhóm quân kia mà chỉ có 3 ngày thì thành bị hạ. Theo dõi lịch sử những năm này thấy rõ lúc nào quân Tàu cũng có mặt như một thứ bảo vệ Việt Nam chống Pháp.

ĐTB. – Hồi nãy chúng ta nói đến ý niệm Indochine của Tây Phương, điều đó có bao hàm cả Mỹ không và điều đó ảnh hưởng thế nào đến đất nước Việt Nam?
ĐNY. – Bên trên chúng ta cũng đã đề cập đến chuyện người Mỹ không thèm biết Việt Nam là thứ gì cả. Dựa theo một số sách viết về các tổng thống Mỹ, tôi nhận xét rằng ông Roosevelt cả đời không biết chữ Việt Nam là gì mà chỉ biết chữ A-na-mit và Indochinese thôi. Đây là điều sai lầm vì làm gì có người Indochinese, tai hại ở chỗ là do đó mà ông đặt vấn đề sai nên cái nhìn, giải pháp, khúc đuôi của nó lệch lạc hết. Trong hội nghị Cairo năm 1943 giữa các lãnh tụ đồng minh gồm Churchill, Staline, Roosevelt và Tưởng Giới Thạch (thực ra ông Tưởng chỉ được Mỹ công nhận nên họp riêng với Mỹ), vấn đề Việt Nam đã được đề cập. Ông Roosevelt cố gán A-na-mít, hay Indochinese, cho ông Tưởng. Cuối cùng ông Tưởng phải nói thẳng rằng người A-Na-Mít không phải là Chinese. Đến thời ông Truman cũng không biết tý gì về Việt Nam, nên khi quân Anh tiến vào giải giới quân Nhật ở trong Nam thì mang theo cả quân Pháp. Trước đó quân Pháp đóng ở Ấn Độ thuộc Anh. Ông Truman gửi văn thư phản đối thì chuyện cũng xong rồi, nhưng ông yêu cầu từ nay đừng dùng tàu Mỹ chở lính Pháp. Vì không biết gì về Việt Nam nên cách giải quyết của các Tổng Thống Mỹ đó đã không lý gì đến vận mệnh một đất nước và một dân tộc, Việt Nam.
(Đây là lúc ông Hồ Chí Minh bắt đầu gửi những bức thư và bản tin đi. Ông ta cũng dàn trò thành lập Hội Việt Mỹ, làm bản tin tiếng Anh. Hồi đó nhiều bản tin phe kháng chiến được dịch ra tiếng Anh, và ngườim phụ trách là ông Tôn Thất Thiện, vì ông Thiện là người độc nhất biết tiếng Anh lúc đó.)

ĐTB: Chúng ta đã cùng nhau phác hoạ vài nét về phong trào thanh niên, đi hơi sâu vào giai đoạn 1965. Đó mới chỉ là lãnh vực thanh niên. Qua bình diện quốc gia, anh Yến có thể đưa ra nhận xét sơ khởi về đất nước mình?
ĐNY: Nhìn lại những năm tháng bọn mình say mê làm việc thanh niên, tôi thấy rõ mình có cái kinh nghiệm trực tiếp, mình có cái kinh nghiệm chua chát của nó nữa, tức là cả đời mình đâu có phải là người Việt Nam. Thử duyệt lại cả đời mình, hồi còn bé ở trong thành phố thì là Việt Nam thành phố, lớn lên ra ngoại quốc cả đời đọc báo ngoại quốc, đọc sách ngoại quốc. Cho đến hôm rồi coi phim Việt Nam nói về một đoàn hát chèo (Phim “Duyên Phận” nói về một đoàn chèo trong giai đoạn đổi mới của Hà Nội), tôi mới vỡ lẽ hát chèo hay đến như vậy mà bây giờ mình mới hiểu. Đó là mình mới cảm, mình mới đến gần nó xuyên qua mấy cái phim nhựa chứ chưa thấy được nó, chưa được sống với nó, thì mình đâu phải Việt Nam.
Mình nghe Tây nghe Tàu dễ hơn, thành ra mình đừng nghĩ là mình có cái khả năng nắm vững vấn đề Việt Nam như là người Việt Nam. Nhưng mặt khác, là đứng nhìn vào vấn đề VN thì mình lại có cái chỗ đứng có thêm nhiều góc cạnh hơn, tức là xác nhận chỗ đứng của mình, tìm cái tọa độ, cái giác độ để thấy cái chuyện Việt Nam theo cái kiểu quốc tế. Trong nước chủ quan theo cái nhìn trong nước. Vậy sau này cần một sự tổng hợp rõ hơn những góc độ nhìn vấn đề Việt Nam.
Thứ hai nữa, là trong tương lai người ta (ở trong nước) có vẻ tha thiết đến người Mỹ quá, thì cái tha thiết đó cũng là bậy. Cũng bậy giống như ngày xưa người Mỹ tha thiết đến Việt Nam quá, tha thiết mang dân chủ đến là cũng bậy, cái lý thuyết của mấy anh thì mấy anh tha thiết chứ còn mấy thằng “bình thường” lại không tha thiết cho nó. Bao giờ cũng thế, cứ nước này đòi dính vào nước khác đâu có được. Thì mình cũng vậy, mình cũng biết người Việt Nam tha thiết Mỹ đâu có phải vì người ta quí cái tự do dân chủ, cái truyền thống nước Mỹ đâu, người ta quí cái đô la thôi.

Phú Minh: Như ông Toàn, ổng cố chứng minh rằng nếu anh muốn có đô la thì anh phải theo cái nếp cái tinh thần tự do như thế nào để có đô la đó một cách phong phú, sòng phẳng và trong sạch, đó là tạo nếp sống lành mạnh dân chủ của đất nước. Tôi nghĩ mình không thể nhìn một cách hoàn toàn như một nông dân Việt Nam đứng trên đồng ruộng, mà mình có cái may mắn mình đi ra ngoài, mình đọc được sách vở mình có cái nhìn rộng, mình đóng góp cái nhìn của mình.
Cái đóng góp đó không phải là cho những người cầm quyền bây giờ, vì hai bên nó đương đối chọi nhau, không tin nhau, nhưng mà mình tìm hiểu chuyện đất nước mình cặn kẽ rồi mình trình bày một cách nó dễ hiểu và chân thành cho lớp người sắp tới đây, họ không có thành kiến gì mình.
Nghĩa là khi giới trẻ trong nước sang đây học nhiều là vì bên đây có sách vở nhiều, tài liệu nhiều, lại còn gửi về nhà được các thứ này kia, vậy đóng góp với họ, rút ra từ những năm tháng trước đây những cái gì mà nó tinh hoa, bỏ những gì sai lầm, những cái gì thừa thãi, nó không có hợp thời nữa. Công việc đóng góp đó phải là một công trình tập thể.
ĐTB: Trong cuộc chiến Việt Nam có nhiều cái mọi người biết ở những khía cạnh khác nhau, chúng mình cũng trải qua kinh nghiệm của chúng mình, từ đó có những suy nghĩ riêng của chúng mình. Mình nên đóng góp. Thí dụ, về cái vụ Trần Văn Ơn, sách sử ở đây đó kể cả của cộng sản trong nước, không nói nhiều về các giai đoạn của thanh niên Sàigòn, giai đoạn ông Diệm và trước khi ông Diệm cầm quyền, mới cầm quyền. Không nói nhiều về cái hình ảnh đó. Và khi anh Yến ảnh đưa ra cái hình ảnh học sinh Petrus Ký chẳng hạn mình đã thấy cái cảnh tượng hết sức sôi nổi của giai đoạn đó. Hồi xưa mình nghĩ rằng chỉ có hồi học sinh sinh viên di cư đó thì mới có cái sinh hoạt đó thôi, thực sự trước đó hoặc sau đó còn những sinh hoạt khác. Vậy, anh Yến có thể tóm tắt, thật tóm tắt, cuộc chiến Việt Nam vừa qua dưới khía cạnh tài liệu sử học?
ĐNY:: Cái thời kỳ chúng ta mới trải qua thực sự nó chẳng may là nó bị dạt lại đằng sau cho nên tài liệu ít đi. Thời kỳ đó nó nhiều biến cố hay, nhưng mà vì nó đều là những giai đoạn mà người ta muốn vượt qua hết. Thí dụ như là năm 75 - 76 vào thì ở ngoài Bắc người ta đâu có muốn ghi nhận những cái gì của miền Nam trước đâu, như vậy mà cứ duy trì cái hình ảnh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) và duy trì như vậy thì có nghĩa là sẽ đi tới cái hiện tượng là tranh nhau với lại ngoài Bắc cho nên ông Trường Chinh ổng dẹp quách đi, để ổng thống nhất đất nước cho nó mau, thành thử cái dẹp đó nó tàn bạo nhưng nó lại cũng tốt trên tổng quát.
Cũng vì đó mà cho đến bây giờ bên Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) người ta im thin thít không làm gì được, thành thử anh Mặt Trận lộn xộn nhất, phản động nhất chỉ dựa vào một cái tinh thần địa phương để mà phản động, như Nguyễn Hộ... này kia, kiểu như Trần Bạch Đằng cũng không dám đi hơn nữa, bởi vì họ không có cái tinh thần địa phương như vậy. Mà khi họ có tinh thần địa phương như vậy, như nói đến đồng bằng sông Cửu Long các thứ này kia, là vì họ sốt ruột trong vấn đề phát triển chứ họ không có cái lối hào khí hào sảng miền Nam này kia.

Gần đây trên các hội nghị quốc tế như trong thập niên 90 này, các hội nghị quốc tế về Á Châu học, về Việt Nam các thứ này kia, thì tôi thấy có mấy chiều hướng đáng chú ý lắm. Các học giả quốc tế người Mỹ cũng có, người Trung Hoa cũng có, các người Đông Nam Á. Về các người Đông Nam Á thì tôi nghĩ là người Trung Hoa nhiều hơn. Họ tìm cách khai thác một đề tài là Đàng Trong. Cái văn minh Đàng Trong, văn hóa chính trị của xứ Đàng Trong. Họ chứng minh hai điều, thứ nhất là Đàng Trong trong thế kỷ 17, 18 có nhiều giá trị hay, có nhiều giá trị mới lắm. Vì lý do họ tiếp xúc nhiều với người Tây Phương hơn, cái đám chúa Nguyễn tiếp xúc với đám Tây Phương nhiều hơn đám vua Lê Chúa Trịnh ngoài kia.
Thứ hai là họ đến đất mới đó cho nên họ không bị ràng buộc vào những cổ điển ngoài kia, cho nên cái giải pháp, cái nhìn, những cái chọn lựa của họ về tục lệ, phong tục này kia đều mới mẻ hết đến nỗi họ còn đưa ra một cái giải pháp khác cho Việt Nam, có thể đã thành hình vào cái thời kỳ 17 - 18 nếu như mà Tây Sơn nó không có... các thứ này kia. Xong rồi đi đến cái điểm thứ hai là chứng minh cái anh Hànội bây giờ thừa kế vua Lê chúa Trịnh, cho nên ảnh coi những gì là thành tích tốt đẹp của miền Nam, của chúa Nguyễn, là các ảnh dẹp hết, là không nói tới, mà cái xu hướng này đã có từ thời trước thế kỷ này nữa. Thậm chí còn đi tới chuyện họ (các sử gia quốc tế) cho là các sử gia, các nhà khoa học xã hội miền Bắc Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên Phủ đã tìm mọi cách gây một cái chiến thắng Điện Biên Phủ về phương diện nhân văn, tức là đánh gục tất cả cái sự tìm hiểu có tính thiên kiến của các nhà nhân văn người Pháp trong nửađầu thế kỷ thứ 20. Thí dụ như đầu thế kỷ thứ 20 tất cả những nhàdân tộc học, phong tục học, khảo cổ nhân văn của Pháp hồi đó, họviết về dân tộc thiểu số, họ đề cao dân tộc thiểu số, họ càng ngàycàng đề cao dân tộc thiểu số Thượng du hay sơn cước trong Nam cácthứ này kia. Sau Điện Biên Phủ quân sự đó thì khi về Hànội các nhànhân văn miền Bắc mở ra một phong trào trong suốt 20 năm đề caongược lại những vấn đề thượng du sơn cước theo mắt nhìn của người Hànội, người Kinh và có một thái độ họ dùng danh từ giống như mộtthứ chủ nghĩa thực dân của người Kinh để át giọng người Thượng đi.

Tôi thấy bây giờ không có ai để ý đến cái đó nhiều, nhưngmà tôi thấy trong 5, 6 năm trời, ba hội nghị quốc tế lớn mà đềucó đề tài như vậy đưa ra và những bài bản họ được phổ biến trênnhững tạp chí về Á Châu học một cách đều đặn, thì tôi biết là, thứ nhất các nhà nhân vật học ngoài này người ta cũng bực mình về cái thái độ học phiệt của các ông Bắc Việt, cái gì họ cũng là nhất.
Thứ hai nữa là họ cũng có cái nhìn là muốn chống lại cái tinh thần đế quốc mới mà người Việt Nam có thể đã bắt đầu tạo trở lại sauchiến thắng Điện Biên Phủ và nhất là sau chiến thắng hồi tháng Tư năm 75, thì những chuyện đó bây giờ chúng ta không thấy trong báo chí, nhưng bây giờ nó nằm trong giới nghiên cứu. Như vậy thì mộtthế hệ nữa nó sẽ tràn lan, bao nhiêu sinh viên, bao nhiêu người làmluận án, bao nhiêu sách vỡ nó sẽ khai triển một đề tài.

Mình phải thấy để tìm một phương hướng, không phải đường lối củamấy ông Cộng Sản, không phải đường lối của mấy ông ngoại quốc này,cái gì mà mình đi tìm nó phản ảnh trung thực hơn với người ViệtNam. Người Việt Nam chắc chắn người ta nghĩ người Thượng (cũng như)là người Kinh mà người Kinh nghĩ tới người Thượng mà nghĩ tới mộtcách văn minh dân tộc chứ đâu có thể nào nghĩ đến tinh thần đế quốcnữa, nhưng mà cũng không thể nào không để ý tới chính sách mà cómột thời kỳ nó quá lộng của xã hội chủ nghĩa.

Tất cả những chuyện đó mình ngồi đây mình trông thấy, mà ngườitrong nước không có thì giờ để ý đến chuyện đó, người ngoại quốcthì người ta nghĩ với cái lối ngoại quốc của họ.

Phú Minh: Thực ra những cuộc nói chuyện như thế này chỉ có điều mong mỏi là rọi một ánh đèn tương đối mạnh vô trong các sự kiện mà mình thấy được một phần cái ngóc ngách. Tức là mình vẫn phải đi từ sự tìm hiểu thời kỳ mà mình bắt đầu có cá ý thức rõ nhất, trưởng thành nhất, tức là bắt đầu từ thập niên 60 trở đi. Mà thời kỳ lịch sử đó cũng hay, thời kỳ giữa hai nền Cộng Hòa, thời kỳ trăm hoa đua nở, có phương tiện cho anh em trẻ thu thập, phản ánh, góp phần uốn nắn (giai đoạn đó) một chút, phần nào thôi.
ĐNY: Nói cho cùng thì thập niên 60 nó có cái gì liên tục cho đến bây giờ. Thực sự thập niên 60 có một cái khá lớn là phía Phật Giáo. Nhưng những gì dính đến Phật Giáo thì rộng rãi quá cho nên đến bây giờ nó chưa kết tụ rõ ràng là cái gì. Ngay cả Công Giáo cũng kết tụ thành một thứ Công Giáo Hòa Bình, và có tính cách quốc tế quá. Cái ông Phật Giáo Việt Nam thì quốc gia quá, quốc nội quá, ổng chả quốc tế gì cả cho nên nó có cái lẩm cẩm của quốc nội, nhưng cái anh quốc tế lại có cái bất lực của anh quốc tế, nghĩa là nó bị động, hơn nữa nó bị điều động từ một nơi nào đó nên cái gì cũng phải chờ chờ đợi đợi, họ bị một khuôn khổ lớn lao bao lấy. Hồi xưa trong nước mình cứ tưởng ở đâu thì Công Giáo cũng là vậy vậy, ra ngoài này đi học hỏi các thứ này kia thì mình thấy cái Công Giáo Vatican nó là một cái system vĩ đại lắm, vì nó là Roma mà cái Roma tôn giáo nó kết nối cái Roma thế tục của thời Đế quốc La Mã. Đế quốc La Mã nó chết đi nó để lại cái Holy Ambai, Holy Ambai cũng không tồn tại được mà chỉ mỗi Hội Thánh tồn tại, nhất là bây giờ nó còn thắng được Cộng Sản nữa thì nó ghê hồn lắm. Tương lai trên thế giới thì nó kình địch nhau với tư bản Mỹ thôi, tư bản Mỹ còn có nghĩa là mấy vị Tin Lành, đại khái thế, nhưng mà bây giờ trên bình diện nào đó thì Tin Lành với Công Giáo người ta tìm cách đại kết với nhau.
Thí dụ như giáo hội Lithuran có những hình thức hòa giải với Công Giáo chẳng hạn.

ĐTB: Như vậy với khuynh hướng toàn cầu hoá như hiện nay phải chăng tôn giáo sẽ là trở ngại cho một thế giới “toàn cầu” và hoà bình?
ĐNY: Bây giờ những trào lưu này nọ ta nói ở trên đã là trào lưu cũ, bây giờ giới trí thức mới, giới trí thức trẻ họ không còn giới hạn trong phạm vi tôn giáo nữa, thí dụ như người Trung Quốc đã nói về phạm vi đại đồng nhiều hơn. Thí dụ vấn đề môi sinh. Môi sinh là đại đồng chứ gì nữa. Môi sinh đâu có biên giới gì nữa đâu. Hay là những va chạm văn hóa hay là cả những vấn đề khoa học không gian, mai mốt có những thiên thể tinh thể gì nó ảnh hưởng lên các hành tinh chúng ta, những cái đó đề xa xôi đều can workship hết. Bây giờ thì không thấy có dấu vết gì của chuyện đó, nhưng mà vài ba thập niên nữa chắc nó cũng thay đổi nhiều.
Trở lại với những chuyện trong nước mình với nhau nó là những chuyện nho nhỏ, trẻ trẻ thôi, mình thu xếp với nhau. Nhưng mà phải bắt đầu lại từ cái thời 60. Cái đám năm 40 có cái hay nhất của họ là độc lập và thống nhất, độc lập khởi đi từ 40 và tới 76 họ thống nhất coi như là thành công tột đỉnh rồi. Nhưng mà cái thống nhất phải trả bằng một cái giá quá đắt, tức là tất cả những cái sự quá đà của nó. Bây giờ cái giá đó đang được trả. Bấy giờ đối với thế hệ 60 nhu cầu của nó không phải là thống nhất mà là phát triển và con người nhân bản hơn. Nhưng bấy giờ nó vẫn còn loan xộn lắm. Giống như cái hồi mà 75 - 76, việc thống nhất là oai hùng lắm nhưng mà trước đó năm năm thì coi nó như nát bương, coi như ở những cây số chót, những anh lực sĩ mà đi tới cây số chót thì coi tả tơi lắm. Nhưng mà nó chỉ cần vượt qua khúc tả tơi cuối cùng và vào tới vận động trường, vòng chót, chạy đến đích đến rồi.... Thế thì với cái thế hệ 60 này, cái thời đại này coi nó... đúng là nát bương tan tác đủ mọi chuyện hết thiếu điều là tự tử nữa. Nhưng mà biết đâu đi khéo khéo một thập niên nữa hay là hơn một thập niên nữa sẽ vào tới cái vận động trường, tới vòng chót giống như ông lực sĩ chạy bốn mươi dặm đang tới dặm chót.

Tóm lại, vấn đề Việt Nam hiện nay vẫn là chuyện “Bọn nông thôn”, nói đúng ra theo ông Nguyễn Huy Thiệp thì là “ông nông thôn”. Đọc cái lô truyện ngắn của ông ấy mà Văn Nghệ mới xuất bản hay lắm.
Đúng là cái anh chàng này nó nói về nông thôn miền Bắc thôi mà nó
nói nông thôn miền Bắc như là một thứ nông thôn đời Trung cổ ấy,
thì cái loạn nông dân Việt Nam là cái loạn nông dân đó chớ đâu có
cách nào mà thoát được.
Có thấy cái nông thôn của ông Nguyễn Huy Thiệp này thì mới hiểu được cái nông thôn của hồi Tây Sơn. Hồi Tây Sơn thì phố xá, bọn nhà binh nhà biếc rồi thì là bọn thương nhân ngoại quốc vào làm ăn, thì chỉ có mấy ông nông thôn là khổ. Bao giờ mấy ông nông dân gặp được ông anh hùng áo vải thì mấy ổng chạy theo. Thì ở đây Việt Nam nó cũng vậy, nhưng thực ra thời kỳ này vấn đề nông thôn đâu có giải quyết theo cái công thức xưa được, thành ra không giải quyết được thì nó cứ trầm kha ở đó, nó kéo dài hoài cho tới lúc nào nó có yếu tố để giải quyết.

ĐTB: Tại nước ta người nông dân thời nào cũng khổ, như thế phải chăng là do những kế hoạch tầm cỡ quốc gia đã không đúng hướng, không giải quyết được chuyện dân sinh cho toàn dân?

ĐNY: Cái vấn đề Việt Nam mình bây giờ khổ là bắt nguồn từ những cái kế hoạch kinh khủng, lớn lao, nó chi phối toàn tương lai Việt Nam từ lúc nó ra đời. Đó là những quan niệm từ thời Kissinger với Nixon đến bây giờ, không có một cuốn sách Việt Nam nào phân tích, đề cập được cái đó bởi nó bàng bạc, mơ hồ. Lý thuyết của Nixon với Việt Nam bị ảnh hưởng của ông Kissinger, mà ông Kissinger bị ảnh hưởng của Âu Châu thế kỷ thứ 19, là làm cách nào để như hội nghị ở Vien 1815 cho đến năm 1870 tức là nó kéo dài được năm mươi lăm như vậy. Có thể nó kéo dài cho tới đầu thế kỷ này nó mới đánh nhau rồi nó mới tan nát. Thời kỳ đó là thời kỳ ổn định và hòa bình lâu dài nhất của Âu châu. Tuy vẫn có cách mạng chỗ này,chỗ kia, nó vẫn có thay đổi này kia nhưng mà nó trong một giới hạn vừa phải thôi. Đại thể Âu Châu.... thì nó vẫn là một cái phức hợp, vừa có tính cách lịch sử văn hóa, vừa tích cách tâm lý, địa lý chiến lược của họ, thế thì cái người Âu Châu trong cuộc người ta thấm cái đó, nhất là những người Âu Châu ở các nước nhỏ họ bị chi phối nhiều do cái ngoại giao của toàn thể Âu Châu, thành những ông Hung Gia Lợi, ông Balan, hay là ông Do Thái lưu vong, đều mang ít nhiều cái thấm thía lịch sử đó. Một ông đã mang những cái đó vào nước Mỹ giải thích và thuyết phục được nước Mỹ đi từ cái lưỡng cực sang cái đa cực.

Trong khi đó ở Việt Nam mình đâu có ai có thì giờ nghiên cứu kỹ lưỡng về Âu Châu đâu. Mà nếu có ai nghiên cứu về Âu Châu thì trở thành cái người đi sinh sống ở Âu Châu, trở thành học giả ở bên đó, không phát biểu bằng tiếng Việt Nam được. Thành thử tóm lại là kiến thức đó của người ta mình không có cơ hội thu thập. Còn như sử gia giỏi của mình như ông Phan Huy Lê, thí dụ như thế hệ của ông ấy giỏi thì giỏi về lịch sử Việt Nam chứ không biết gì về Âu Châu. Về sau này thì các ông ấy lại bị chiến tranh đổ dồn vào, bắt nghiên cứu cái thời kỳ thượng cổ Hùng Vương, một thời kỳ tối tăm, họ phải tận dụng óc tưởng tượng quá nhiều. Họ không có thì giờ đi phân tích những bài học căn bản của Âu Châu, cả vấn đề theo kịp sự phân tích của những liên ngành của Âu Châu, của những thập niên sau này, cũng vậy.

Họ chẳng hiểu gì chuyện bên ngoài, cho nên cả một bọn Việt Nam mình bấy giờ, ngay cả khi chúng ta sang đây đông người như thế này, học hỏi đủ mọi thứ hết, đọc sách vở đủ mọi thứ hết, thông minh chẳng kém ai mà không có mấy ai phân tích được cái sách lược của cái thời Việt Nam hóa chiến tranh.

Cho đến bây giờ người Mỹ bắt đầu nghiên cứu về sự leo thang chiến tranh Việt Nam. Leo thang từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh giới hạn rồi đến oanh tạc leo thang, thì bây giờ có thể nói là cái thế hệ sử gia thứ hai của Tổng Thống Johnson tức là cái thế hệ mà các giáo sư sử của các trường Đại học Texas, những người được nuôi dưỡng bởi những thư viện của Johnson hay là những cái chương trình của nhà giàu Texas nó đài thọ nghiên cứu về Johnson thì họ đã giải thích hết tất cả các chuyện: Tại sao Johnson đi vào con đường như thế như thế... Đúng cái gì? Sai cái gì?

Nhưng những sử gia Mỹ này cũng chưa đi qua được cái thời kỳ Kissinger bởi Kissinger còn lù lù ở đó chưa nói ra hết. Cuốn hồi ký thứ ba của ông ta vừa mới ra đời chừng hơn một năm nay. Tuy nhiên ngay bên Mỹ, quần chúng không biết chứ còn giới chuyên môn người ta có thể biết những quan điểm tổng quát. Còn người Việt Nam mình không biết những chuyện đó. Sử gia Việt Nam hoàn toàn không biết chuyện đó. Cho nên mình vẫn còn bàn về cái chuyện Việt Nam ở cái mức độ Trung Cổ đó, tức là ở cái mức độ xa Mỹ một thế hệ rồi.
Thành ra cái kiến thức của người mình trong nước so với của giới ngoại giao quốc tế đã uốn nắn, đã đưa ra cái road map về Việt Nam, nó xa cách nhau quá, không có tài nào gần nhau và thông cảm được nhau hết.

Và trong trường hợp đó thì mình thiệt thòi. Mình muốn rút ngắn cái khoảng cách đó với tính cách mình là người có mặt tại hiện trường thì nên tìm cách thu cái nhãn quan của bên phía mình lại, thu hẹp nó lại để cho nó focus cho đúng hơn.

Wednesday, January 28, 2009

Nói chuyện với nhà báo Đỗ Ngọc Yến - 2

Những Gì Còn Nhớ về Vụ Trần Văn Ơn (1950-1951)

* Petrus Ký và lễ truy điệu Trần Văn Ơn hàng năm * ĐNY làm báo lậu * ĐNY len lỏi vào giới nghệ sỹ * Kẻ đứng giữa 2 hệ thống.

Đỗ Tăng Bí ghi

Cuối năm 1999, chúng tôi gồm những anh em từng làm việc chung với anh Đỗ Ngọc Yến dùng lúc nhàn tản để hỏi thăm Anh về một số điều trong những tháng năm trước đây chúng tôi chưa rõ. Những điều này được nêu ra với anh Yến và Anh trả lời như một đóng góp hiểu biết của Anh. Trong những năm 1960, chúng tôi nghe một số thanh niên tương đối lớn tuổi hơn nhắc đến “Trò Trần Văn Ơn” với giáng dấp một học sinh anh hùng. Chúng tôi mang chuyện này hỏi anh Yến.

Anh Đỗ Ngọc Yến lược thuật:
Đó là lúc Mỹ bắt đầu dấn thân vào VN. Chính phủ Mỹ cho một tàu chiến đến bến Sàigòn và một số phi cơ giao cho Pháp. Từ đó gây nên phong trào phản đối.
Bối cảnh thời sự của VN đầu năm 50:
4 cường quốc chia phe: Trung Cộng & Liên Sô công nhận VN Dân Chủ Cộng Hòa; Mỹ & Anh thì là phe chính phủ Bảo Đại, chuyện này xẩy ra trong 2 tháng đầu năm 50.
Cuối năm 49 Trung Quốc kỷ niệm toàn thắng làm chủ Trung Hoa Lục Địa. Cũng trong năm 49 Nga Xô thử bom nguyên tử. Điều này là biến cố lớn vì người Mỹ cho rằng đến 51, 59 Nga mới làm được bom nguyên tử, nhưng nhà bác học Anh gốc Đức đã đưa lén tài liệu cho Nga nên Nga thu ngắn được vài năm.
Năm 49 là quan trọng trong chiến tranh lạnh vì hai biến cố kể trên làm cho cán cân hai khối Tư bản và CS đảo lộn, và Mỹ bắt đầu đi vào chiến tranh lạnh quy mô hơn, có biện pháp mới, biên giới mới, tức là thừa nhận Pháp tại VN.
Trước đó, các năm 47, 48. Mỹ còn ngần ngại nhưng đến 49, lần đầu tiên Mỹ đưa ra đề nghị viện trợ cho VN trong ngân sách viện trợ cho cuộc chiến đấu chống CS tại Đông Dương. Đối với Mỹ thì là viện trợ cho VN nhưng với Pháp là viện trợ cho Pháp (qua nước Pháp). Viện trợ gồm quân sự, nhân sự và kinh tế. Quân sự giao hoàn toàn cho Tây; nhân sự chỉ vài trăm người lái mấy chiếc phi cơ (sơn lại), chỉ có kinh tế là giao thẳng cho VN, đó là nguồn gốc của USOM.
Do đó, khi đoàn tàu Mỹ đến giao phi cơ quan sát và thả bom nho nhỏ ở bến Thủ Thiêm thì là bên kháng chiến sách động sinh viên học sinh biểu tình, nhưng hồi đó có rất ít sinh viên cho nên phải nói đó là cuộc vận động học sinh do nội thành tổ chức.
Cuộc vận động này bắt đầu từ giới tiểu thương ở chợ, mấy bà buôn gánh bán bưng ở chợ Bến Thành đình công bãi thị, nối lại không khí thời 49. Sau đó đến đám học trò tiếp tay, kéo đến dinh Thủ Hiến đưa kiến nghị (năm chót của Trần Văn Hữu). Đám biểu tình tụ tập tại cây da trước cửa Tòa Án. Mấy tòa nhà lớn ở trung tâm thành phố gồm bên này dinh Gia Long, bên kia tòa án, bên kia là khám lớn. Lúc đó khám lớn còn y nguyên, gọi là số 69 , hiện nay là Văn Khoa. 1952, một năm sau, Nguyễn Văn Tâm lên mới quyết định phá bỏ khám lớn. (Về việc phá bỏ khám lớn: Ngày đó Nguyễn Văn Tâm dùng búa đập tường, -họ có bắt học sinh đi xem- lúc đó tôi (ĐNY) học Đệ Thất.)
Vào lúc biểu tình thì tôi (ĐNY) học tiểu học Trường ở đường Ngô Tùng Châu, không biết gì, chỉ thấy ồn ào ngoài phố xa. Trong lớp có mấy anh lớn -thời đó có hiện tượng mấy anh khá lớn mà đi học lớp nhỏ là vì chạy giặc bỏ học hành ba bốn năm- cho nên có những lớp mà tuổi tác học trò cách nhau 4, 5 tuổi. Có gia đình gồm 4 anh em từ Bắc vào ở căn nhà ở khu Bàn Cờ sau lưng Cao Thắng, như nhà hoang rộng -lúc ấy Bàn Cờ còn trống trơn- bốn anh em cùng học lớp nhì, lớp ba với nhau. Anh lớn nhất tên là Vinh, dẫn dắt cả bọn này đi biểu tình. Đi từ chỗ Ngô Tùng Châu đến Ngã Sáu rồi mình cũng không được đi tới đường Gia Long, chỉ biết lộn xộn kéo nhau đi.
Sau đó là bãi khóa đi vòng vòng các đường phố. Nhưng đến lúc có đám tang (Trần Văn Ơn) thì ai cũng đi. Đám tang để quan tài ở chỗ Trường Sư Phạm sau này. Tại khu đó có bốn tòa nhà ba tầng thì xác để tòa nhà đầu tiên. Trước đó xác ở nhà thương Chợ Rẫy - chết trong đó rồi đưa về - sau này đưa vô chôn ở Chợ Lớn.
Lúc đó Trò Ơn là học sinh Tú Tài -chưa thi Tú tài- Lúc đó Tú tài giống như Cử nhân bây giờ, sang trọng lắm! Đám tang đã trở nên một cái gì rất là nhân dân. Cái đó lúc ấy mình cũng không hiểu tại sao lại to lớn như vậy. Sau này mãi nhờ những người như ông Quỳnh (Nguyễn Đức Quỳnh) giải thích mình mới hiểu rõ. Tức là thời gian đó guồng máy chính trị của người Pháp ở miền Nam VN họ cố tình thả nổi một số hoạt động do cán bộ kháng chiến điều khiển. Để yên cho họ hoạt động tưng bừng - thứ nhất là để cho nổi lên, thứ hai là chứng minh với Mỹ là CS mạnh như thế, tràn ngập như thế đó để cho Mỹ viện trợ.
Thành thử về phương diện văn học thì nhóm văn học xuất bản -nhà xuất bản Nam Việt, Thần Đồng, Sống Chung in sách Đệ Tam Quốc Tế, sách tùm lum, nhất là sách của bộ ba Tam Ích - Thiên Giang - Thê Húc. Ba ông này sau là ba trường hợp trí thức VN. Ông Tam Ích tự treo cổ, ông Thê Húc thì về sau đi sang Mỹ đổi tên đổi họ. Còn ông Thiên Giang thì ở lại bên kia tới cùng, cho đến khi năm 68 ông Thiên Giang và bà vợ ở trong phòng trào Đòi Quyền Sống, nhưng sau 75 đã biến mất có thể chưa bị làm gì thì đã có việc thanh toán Mặt Trận. Đại khái lúc đó rất hỗn quân hỗn quan.
Một mặt CS, một mặt kháng chiến, một mặt hoạt động trong thành phố tưng bừng hoa lá. Vẫn có bót Catinat, vẫn có cảnh sát bắt người này người khác, nhưng không làm phong trào phải lắng đi. Hồi đó tôi nhớ có đi dự đám tang -với bà cụ- Đi xe xích lô và đi bộ. Nơi chôn ở xa lắm, tuốt Chợ Lớn, nhưng lúc về thì mấy ông xích lô không lấy tiền, gọi là ngày ủng hộ bà con.
Lúc đó là Tháng Giêng. Ngày chết của Trần Văn Ơn là mùng 9 tháng Giêng. Cho nên sau này ngày 9 tháng Giêng là ngày sinh viên học sinh là vậy.
Ở VN có một hình thức hoạt động chính trị là “phong trào đám tang” -có lẽ bắt đầu từ đám tang Phan Châu Trinh- Cho nên đám tang này rồi sau đó là đám tang của các vị trong phong trào Phật Tử. Đó là phương pháp tổ chức đấu tranh nội thành lẫn lộn. Nó lên cao điểm nhất là thời Mậu Thân rồi 71 - 72

Sau này đám tang Nhất Linh thì sao?
Đám tang Nhất Linh thì cũng mang máng kiểu đó. Người ta dùng đám tang để kích động. Người ta tụ họp trong đám tang, diễn hành trong đám tang, tập họp tại nghĩa trang. Thời Nhất Linh đang manh nha cái vụ khủng bố Phật Giáo. Thời Nhất Linh thì gốc quốc gia cho nên một số công chức viên chức cũng muốn đi dự đám tang cho nên (chuyện đàn áp) không đến nỗi nào. Nhưng riêng đám táng Nhất Linh cũng buồn cười là chôn ở nghĩa trang Gò Vấp (Xóm Mới đi vô). Đám tang rất đông, nhất là xe đạp, xe gắn máy và công an lẫn lộn, nhưng không có cảnh ruồng bắt. Nhưng cũng có hạn chế, đông nhất là bọn trẻ bởi vì nó khích động bọn trẻ. Nó không có tính cách tôn giáo, không có tính cách đảng phái. Nhất Linh là một biểu tượng tinh thần. Mặt khác việc đàn áp Phật Giáo đang lên, lúc đó là mùng 7 tháng 7. Một tháng hai tuần lễ sau -tức là 21 tháng 8- có lệnh đánh chùa. Không khí lúc đó ngày càng găng.
Vụ đám tang Nhất Linh lúc đó như là một cái mốc. Trước đó phong trào đấu tranh ở thành phố chỉ giới hạn trong tăng ni Phật Tử nhưng sau vụ Nhất Linh nó lan tràn ra thanh niên trí thức quần chúng. Và đến ngày đánh chùa thành ra có thêm quân đội vào nữa.

Bây giờ trở lại với Trần Văn Ơn. Mấy năm sau đó kỷ niệm ngày giỗ, hồi anh học đệ tam, đệ tứ thì sao?
Từ đó về sau Trần Văn Ơn là biểu hiện sự bất khuất của giới thanh niên. Con người Trần Văn Ơn thế nào thì mọi người cũng không hiểu rõ và cũng không ai ra nói là họ hàng hay anh em để thừa hưởng gì cả thì coi đó như tượng trưng cho lớp trẻ hy sinh. Trong cái lớp trẻ hy sinh trong Nam Bộ Kháng Chiến có hai đợt. Năm 47 có (Lữ Kiến Đồng) ôm tạc đạn cho nổ kho đạn Thị Nghè, sau này là bên hông Sở Thú, nơi tiểu đoàn Tâm Lý Chiến đóng. Kho đạn bị cháy do một số thanh niên xông vào -sau này người ta gọi là đặc công- hồi đó không có danh từ đặc công -người ta gọi là cảm tử.
Đến cuối 50 thì xảy ra vụ Trần Văn Ơn. Bây giờ, có một số người ở tại Quận Cam từng học Petrus Ký cũ cùng thời với Trần Văn Ơn, nói rằng Trần Văn Ơn chỉ là một học sinh trung bình đi theo đoàn và là nạn nhân của một viên đạn vô tình chứ không phải là lãnh đạo, cũng không phải là người cầm đầu. Nhưng ít ra anh cũng là người tham gia cho nên không có gì đặc biệt cả. Cho nên đó cũng là một chi tiết thôi. Ngoài ra khi Trần Văn Ơn chết thì chôn tại miếng đất ở nghĩa trang Đô Thành phụ -nó là miếng đất nhỏ nằm trước sân đá bóng Cộng Hòa. Trước sân Cộng Hòa có mấy đường nho nhỏ mà người ta hay dùng tập lái xe hoặc thi lấy bằng lái xe hơi -đường ngăn ngắn ô vuông- Nhưng sau 75, nghe nói là mộ cũng bị bốc sang chỗ khác, tức là mộ cũng không được săn sóc chú ý lắm. Nhưng cho đến gần đây ngày 9 tháng Giêng vẫn là ngày Sinh viên Học sinh.
Nhưng đối với trường Petrus Ký, vì chuyện đó cho nên ngày 9 tháng Giêng hàng năm bao giờ cũng là ngày căng thẳng trong trường bởi vì thế nào cũng có một cái hình thức kỷ niệm nào đó được tổ chức ngấm ngầm, không phải trong khuôn viên trường mà một địa điểm nào đó. Bàn Cờ là một trong những địa điểm tổ chức, đại khái có một số người bí mật tụ họp làm lễ kỷ niệm. Nó có vẻ huyền thoại gay cấn. Sau đó có những phong trào mà học sinh của trường Petrus Ký tham gia những cuộc đấu tranh này nọ thì hầu như năm nào cũng có. Lúc nào cũng có tin anh này, anh kia bị bắt. Có hai lứa, một là khoảng Đệ Nhị hay Premier chương trình Tây và một lứa từ đệ Tứ trở xuống. Đám lớn thì còn ý thức và trưởng thành già dặn, đám nhỏ thì thường là bị lôi cuốn vào phong trào. Sau này nghe nói các anh em đó -sau năm 54- là những người nối vào thời kỳ đấu tranh hiệp thương -lúc chưa có Mặt Trận.
Trong Nam, vấn đề là các cuộc kháng chiến nổi dậy do các xung đột với chính quyền là một vấn đề an ninh quan trọng. Thời TT Diệm chuyện đó là một điểm rất găng. Thời đó có một cơ quan cảnh sát, được gọi cơ quan cảnh sát Đặc Biệt miền Đông (gián đoạn vì có điện thoại). Thời đó, trong các buổi lễ bí mật loại lễ giỗ Trần Văn Ơn mình vẫn dùng cho các bài truy điệu - Hồn Sông Gianh, rồi bài “Người Xưa Đâu Tá?” rồi “Bài Kinh Cầu Nguyện”, ba bài của Lưu Hữu Phước. Đặc biệt năm 55, ba bài được soạn lời riêng cho buổi truy điệu đó. Lờ ca này buộc tội chính phủ Sàigòn trong việc đánh nhau với Bình Xuyên, đốt cửa đốt nhà... Lúc đó có hai bài hát riêng của đấu tranh. Một bài là “Đi công tác cứu trợ” của anh Trần Phú Hữu, học sinh đệ Tứ, sau có anh Lê Tấn, sau đó các anh này bị bắt đày đi Côn Đảo, sau 75 không nghe nói tới chắc là đã chết hết.
Sau đó nảy ra bọn trẻ hơn những người trên, nằm trong bọn học sinh ở tỉnh về Sàigòn trọ học. Họ ở chung trong các khu với nhau, nhà bao giờ cũng nằm ở trong các khu kiểu như Bàn Cờ, Lê Văn Duyệt, cũng có khi nó ở trong các khu nội trú nào đó. Và họ có tính cách đoàn thể lắm. Họ giúp đỡ lẫn nhau, người này đi làm lấy tiền giúp người kia đi học hay là mỗi ngày lễ họ kéo nhau đi về tỉnh Bến Tre, Bình Dương, Biên Hòa, ra bến xe đò đi nửa vé nhiều khi không có tiền cũng được. Trong căn nhà trọ của họ không có giường chiếu gì cả, chỗ nào cũng thấy một đống sách, sách kê thành giường thành ghế thành gối, đó là ở chỗ họ có đoàn thể có tổ chức. Sau này cao hơn họ có cô Năm chú Ba này kia, người thì tiếp tế bánh mì, người thì tiếp tế xôi, khi thì làm công tác xã hội, khi thì làm công tác nghĩa thục các thứ nhưng mà có truyền thống lâu đời từ trước. Thành ra một hệ thống như vậy lợi hại lắm. Nó là cái phong trào, sau này từ đó mà MTGPMN họ huy động được tất cả. Tới lượt MTGPMN bị người khác huy động cho tới lúc thành công thì họ bị giải thể luôn đó là một vấn đề khác.
Trở lại các buổi lễ truy điệu, thì tổ chức hát ở bờ sông, truy điệu vừa hát vừa run, cảnh sát hồi đó họ cũng khôn khéo lắm họ không bắt ngay tại chỗ, họ để giải tán rồi họ mới bắt. Tất cả những vụ đấu tranh nội thành hồi đó không bao giờ bị bắt trong lúc hội họp hay bị bắt trong lúc xảy ra công tác, biểu tình, mít tinh, hội họp không có, bao giờ cũng về rồi họ bắt tẻ ra, bao giờ họ cũng bắt các người cầm đầu. Họ tìm ra những người gọi là Ban Đại Diện họ bắt.
Ban đại diện (các lớp học sinh) thì có hai ba loại, có cái thứ mà học giỏi thì nó được cử làm ban đại diện, nó bị lôi kéo vào cái đó, họ không ở trong ban tổ chức, cùng lắm là cảm tình viên này kia thôi. Chỉ khi nào họ bị bắt và rơi vào hệ thống đàn áp thì sau này có khi họ được móc nối tổ chức thì họ trở thành tham gia xã hội. Còn các cán bộ thật sự thì họ lẩn tránh đàng sau những cái đó (Ban đại diện), họ bảo toàn nhân sự của họ, họ làm cái công việc đưa người này đẩy người kia ra thôi, họ đi kiếm phương tiện mang về thôi. Thành thử cái guồng máy an ninh điều tra phải mất nhiều chặng mới đụng được đến cái thành phần cao hơn nữa là cố vấn.
Về đám cố vần này, họ không phải là ở trong trường, đôi khi năm thì mười họa là giáo chức, thực sự họ là người ở ngoài hết, họ là anh bán bánh mì, hay anh công nhân hay anh thân sĩ nào đó. Nghĩa là có thể họ rất trẻ, trẻ hơn đám học sinh chừng một chút, họ có thể già dặn hơn một chút. Cao điểm nhất là thời kỳ đấu tranh hòa bình năm 64 - 65 thì tất cả hệ thống này mới biến mất. Biến mất đó là vì họ bị các guồng máy an ninh Sài gòn cô lập triệt tiêu. Lúc đó thì họ đã đẻ ra nhiều phong trào khác nữa hợp pháp hơn, công khai hơn, cơ sở hơn. Thí dụ như Phong trào tiểu thương, phong trào giáo chức, phong trào này kia từ 68 - 72 mà mình gọi là phong trào Đòi Quyền Sống mấy chục đoàn thể, sau này 75 thì ngay cả công giáo người ta cũng mô phỏng theo phương pháp này người ta tổ chức những đoàn thể đấu tranh của người ta. Lúc tháng 4/75 có từ 20 cho đến 40 đoàn thể công giáo tổ chức như thế này đấu tranh cho hòa bình, thành ra những người đó sau đó họ lập tức xoay ra họ chỉa mũi dùi vào các chỗ như là Cơ Quan Ngoại Giao Tòa Thánh, Khâm sứ Tòa Thánh hay là Tòa Tổng Giám Mục các thứ này kia là phương pháp từ đó mà ra hết.
Tóm lại những phương pháp đấu tranh như thế này ở Việt Nam nó có từ thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, những phong trào họ dấy lên sau đó là Đông Dương Đại Hội, sau đó là thời kỳ Mặt Trận Bình Dân thì nó được hợp pháp công khai đến lúc chấm dứt Mặt Trận Bình Dân thì thực dân Pháp bắt hết tất cả những người hoạt động, người ta đưa đi giam các nơi trước ngày Đệ II Thế Chiến.

Cái hồi bắt truy điệu lẻ tẻ đó, anh cũng bị bắt ở dịp đó?
Hồi đó tôi (ĐNY) còn nhỏ quá, hồi đó cái vụ truy điệu đó tôi không phải là cánh tổ chức, tôi là cánh tham gia. Sở dĩ tôi tham gia mạnh là vì lúc đó tôi là hướng đạo, hướng đạo mình có cái khuyến khích trong nội bộ là đi đâu mình cũng lăng xăng, mình đóng cái vai tổ chức, thí dụ như ăn uống mình tổ chức cho người ta ăn uống, đưa đón mình tổ chức đưa đón, trật tự này kia nhưng mà mình không biết chương trình. Chương trình là cái chuyện đó định làm như thế nào mình không biết nhưng mà thấy có một số người tập họp mình xoay ra tổ chức thế nào cho có trật tự.
Đó là năm 55, nhưng năm 56 tôi đi sâu vào cái đó là sản xuất báo, báo bí mật, báo lậu. Đến năm 57 thì tổ chức hội họp bí mật.

Báo lậu in ?
Báo in bột, tức là bột thường, bột gạo, nhưng có một đặc biệt là mực in, mực phải mua ở tiệm bán ở đường Catina. Lọ mực đó là loại mực của Ấn Độ. Lọ mực cũng đắt tiền, lúc đó đi mua lọ mực cũng bằng bao anh em đi một chầu ciné. Mực chà lên bột mực thấm vào lăn từ tờ giấy này qua tờ giấy kia, lăn độ chừng ba chục trang thì bột xộc xạch và chữ ngoằn ngoèo hết, đôi khi muốn làm nhiều phải in hai lần. Sau này người ta gọi in sương sa thì cũng là nguyên tắc đó hết. Thực ra thì cái đó chỉ là chuyện học tập, thực sự nội dung của những tờ đó không có gì đặc biệt, thực sự nó tập cái sinh hoạt gắn bó tổ chức và nó tập cho người ta tổ chức thì đúng hơn, tập cho người ta dính dáng vào những sinh hoạt. Giai đoạn này không có vấn đề truyền đơn. Giai đoạn này là giai đoạn gắn bó với nhau, nhưng đến năm sau năm 57 là hội họp là đấu tranh thì nó có vấn đề là móc nối đấu tranh liên lạc đại diện trường này trường kia, lớp này lớp kia, trường này trường nọ trường kia, tỉnh này tỉnh nọ tỉnh kia và phải có chỗ họp.
Họp thường thường đi vô những khu như Vườn Chuối, Vườn Chiếc này kia, mượn được cái nhà người này người kia họp. Có khi phải đi ra Gia Định họp, Biên Hòa họp, dự nhiều những buổi họp dần dà mình thành người tổ chức, cuối cùng tôi thành ra cái người chủ tọa các buổi họp mà tôi không phải là đại diện chính thức gì cả, vì là mình hoạt động lu bù các thứ nên mình học không thể học khá được, mà không học khá thì không đại diện trong lớp, không đại diện trong lớp thì không đại diện trong trường. Nhưng mà đám đại diện là đám ký tên còn mình là đám tổ chức.
Đến lúc kéo nhau ra biểu tình, về đến nơi thì mới biết ra là những người ký tên các thứ này kia thì là bị cảnh sát công an gọi lên hết, thì nó cứ phăng lần này hết ai ai ngay cả đến khi nó vồ được mình nó hỏi: Ai là người bày ra cho anh cái này cái kia, nó không tin là bọn nhỏ mà không có bọn lớn đằng sau, nhưng suy lại là chỉ có bọn trẻ với nhau làm chả có bọn lớn nào hết hay bọn lớn chỉ là bọn ngấm ngầm thôi không xuất hiện. Những người lớn đó họ chỉ nói qua những người không chính thức trong anh em nên không ai biết rõ ai nhưng bài bản cứ tuôn ra.
Sau đó chưa hết, sau đó tôi không có hoạt động với các học sinh nữa, là vì sau cái thời kỳ mà mình bị giữ công an cảnh sát khi thả mình ra bao giờ nó bắt cũng phải ký giấy là có ai liên lạc phải báo cho nó. Khi mình về đến nhà hay mình về đến trường thì mọi người ai cũng biết là người này được thả về thì ai người ta ai cũng xa hết, ai cũng không dám liên lạc, thì cái đó cũng tốt thôi thì thay vì mình báo động cho người ta đừng liên lạc mình thì người ta đã biết rồi, có cách người ta biết rồi.
Nhưng mà đến lúc này lại có những người nó đến rủ mình đi vào những phong trào khác không phải phong trào học sinh nữa bây giờ phong trào lao động, bây giờ tôi đi tổ chức lao động, ngày mùng 1-5 thì tổ chức cho lao động biểu tình, tổ chức lao động hội họp này kia, thậm chí còn tổ chức cho các nghiệp đoàn văn nghệ sĩ nữa mà văn nghệ sĩ đây là văn nghệ sĩ của nhân dân. Lần đầu tiên mình mới biết thế nào là chuyện họp. Họp đến đâu công an ngồi bên cạnh đều biết vì trong trụ sở nghiệp đoàn mà, suốt ngày đêm công an ngồi ghi chép các thứ, thậm chí ngày mùng 1-5 đi biểu tình đó, đi vào cửa nó cũng ghi tên, tức là đấu tranh hợp pháp công khai ra mặt hết mà mình vẫn không biết người điều động là ai. Mà nếu muốn liên lạc thì người ta hẹn gặp cứ ở trên đường đó chiều giờ đó thì gặp nhau.
Nếu thời kỳ đó mình bị bắt giam cầm thì thường thường thế nào mình sẽ được móc nối khi ở trong tù. Như thế mới là bắt đầu đi vào tổ chức. Còn bấy giờ chỉ là những cảm tình quần chúng nhân dân, lôi kéo các thứ này kia. Loại cảm tình viên này thường rơi rụng, tất nhiên nó cũng có những anh rơi rụng bất ngờ. Đa số những anh em mà thường có hệ thống liên lạc khác. Trong trường hợp tôi, những liên lạc khác đó không phải của anh em miền Nam, không phải những anh em hướng đạo hay anh em Bắc kỳ di cư chẳng hạn. Anh em Bắc Kỳ di cư mở miệng ra là chống Cộng, thực sự nó đi sang một thằng khác.
Trong trường hợp tôi, tôi bỏ học sớm quá, cho nên tôi không ở trong hệ thống nhà trường, chẳng hệ thống lao động, chẳng hệ thống nào hết, tiện đâu mình đi chơi giao dịch ở đó rồi thành thử mình rơi ra ngoài nó không có ở trong chính thống. Bây giờ nhìn lại thì nó rõ lắm, chứ hồi đó như cơn lốc nó cứ lôi lôi đi những anh thanh niên mười mấy tuổi cứ bị lôi lôi đi như vậy, ở thành phố nên có nhiều cơ hội gặp gỡ, nhiều sinh hoạt.
Thành ra đời mỗi người, ở tuổi mười mấy nó có những kinh nghiệm đúng với tuổi đó. Ở đây, tôi có những kiinh nghiệm hơi sớm ngoài kinh nghiệm đi học mà nó lại chậm về kinh nghiệm hồi còn bé như đánh đáo, đánh điếc, bắn chim, thì nó là loại kinh nghiệm thành phố này. Chỉ có thời đó nó có như vậy thôi, bởi vi chiến tranh nó xảy ra trên hai ba bình diện, nội chiến, ý thức hệ này kia không phải bây giờ người ta mới tận dụng đám trẻ con như là bên Phi Châu, đám trẻ 13, 14 tuổi cầm khẩu súng bazoka hay là mặc bộ đồ lính của người lớn nom nó buồn cười. Thời đó người ta cũng sử dụng trẻ con nhưng mà tinh vi, vô cùng tinh vi, hệ thống lớp lang và nó có một kinh nghiệm là mấy chục năm ở Việt Nam, Trung Quốc, ở ngoài Bắc vào trong Nam mấy chục năm, mấy thế hệ như vậy. Thành thử cái đó đối với Tây Phương đó là cái gì nó hơi lạ nhưng đối với xứ nông nghiệp xứ Đông Nam Á mình thì cái đó nó thành ra chuyện bình thường ai cũng có thể trải qua được.
Anh có vào lại Petrus Ký không?
Ờ không thì...
Năm nào ra khỏi?
Ờ tháng Giêng năm 59 thì ra khỏi Petrus Ký, khi mà bị bắt rồi được thả đó, thì chưa sao vẫn còn đi học được nhưng mà xáo trộn là xáo trộn của bản thân mình thôi còn chuyện học hành nhà trường vẫn chưa có gì hết, nhà trường chưa có cảnh sát hóa đến độ... Nhưng mà cái lạ lùng nhất trong trường hợp của tôi đó là bị giải tòa, tức là bị truy tố chính thức ra tòa vì tội phá rối trị an, sau này những chuyện đó nó cũng xảy ra nhiều lần nhưng mà trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa đối với bọn dưới mười tám tuổi thì chỉ có xảy ra lần đó.
Lần đó họ đưa ra đâu 14 người ra trước tòa về tội đó, 14 người trong đó là 12 người đại diện của các ban đại diện học sinh, những người đã ký tên vào các kiến nghị, thì trong những người ký tên có năm bảy người hoạt động, có những người vì là đại diện nên phải ký vào thôi. Có những người sau đó gia đình lo cho họ thoát được, họ học hành tiếp tục bình thường không có gì hết, có những người cũng bị sổ đen sổ đỏ hoài, có những người thoát ly luôn.
Trong trường hợp tôi, tôi là người không có ký tên trên văn kiện nào hết, nhưng mà tôi lại ký trong hai cái loại văn kiện (hành chánh), tức là vì khi gửi những cái đó (bản kháng nghị) lên cho Tổng Thống và Quốc Hội thì phải ra bưu điện gửi bảo đảm, và hồi đó muốn gửi bảo đảm cho Tổng Thống và Quốc Hội thì họ biên căn cước của mình, thành ra nó có vẻ là một người tổ chức ở một dạng nào đó. Có lẽ trong trường hợp của tôi là tôi hoạt động khá độc lập thấy cái gì tiện mình làm chẳng phải mình thuộc hệ thống nào, chẳng có với ai, do đó nó truy mãi thì nó theo dõi mình và để đấy thôi. Nhưng đến lúc đưa ra tòa thì lại lấy cái tên tôi gọi là Vụ án Đỗ Ngọc Yến và các đồng lõa.
Ra tòa cuối tháng Giêng năm 59, ra tòa thì lại một kinh nghiệm ra tòa nữa. Đó là tự nhiên không biết từ đâu có bao nhiêu luật sư đến để đề nghị biện hộ. Khi xong rồi sau đó một số trong các ông đó sau là những ông đầu tầu của mấy ông tranh đấu sau này. Lúc xử án, lại nảy ra phong trào nhịn ăn điểm tâm để dành tiền trả luật sư biện hộ cho mấy người này. Xong đến ngày ra tòa lại bãi khóa, học sinh vây nghẹt tòa án các song sắt hàng rào tòa án bị bám nghẹt không vào được. Đến lúc chúng tôi vào đến nơi, sau khi tập họp điểm danh xong thì ông tòa nói là đình vô hạn định. Đình mà đình vô hạn định thì tức là ai về nhà nấy.
Tôi từ toà án đi về trường. Thì đó là buổi sáng ở tòa án, buổi chiều tôi mới về trường Petrus Ký, lúc đó tôi học đệ nhị. Vừa đến trường thì hai ông giám thị chờ sẵn kẹp cổ tống ra ngoài cửa trường và bảo từ rày trò không được trở lại trường này nữa vì sáng nay hội đồng giáo sư đã họp đuổi vĩnh viễn.
Nhớ ngày?
Thì đó là cuối tháng Giêng năm 59. Tôi cũng nói là “Cho tôi tôi lấy cái xe đạp” vì còn xe đạp trong trường. Đạp xe về đến nhà thì ông già đã biết, giám thị đã báo cho cha mẹ biết rồi.
Nghĩa là buổi sáng mình đến trường rồi mới ra tòa?
Không, buổi sáng từ nhà ra thẳng tòa án luôn.
Thế cái xe để đâu?
À không, có lẽ buổi trưa về đến trường để xe đạp, lúc đó còn làm báo xuân cho trường, lúc đó tôi là Trưởng ban Báo Chí của trường làm tờ báo Xuân nữa thành ra chạy tới chạy lui, tôi ra khỏi trường học sáng ngày hôm đó là đi luôn.


Hai cái systems, một cái system bên tranh đấu một cái system của nhà cầm quyền nó play ở trên đầu mình. Mình thì rơi vào trong đó như một cơn lốc

Nói chuyện với nhà báo Đỗ Ngọc Yến - 1


Đỗ Ngọc Yến Thuở Thiếu Thời

Đỗ Tăng Bí ghi

Nhiều tổ chức, đoàn thể, nhiều cơ quan truyền thông, nhiều trường đại học Mỹ và các sắc tộc thiểu số đã công nhận sự đóng góp của nhà báo, nhà hoạt động Đỗ Ngọc Yến, cho sự phát triển và hội nhập của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, và sự hoà hợp với các cộng đồng bạn. Độc giả đã được đọc và nghe nhiều chương trình phỏng vấn, bài báo viết về anh Đỗ Ngọc Yến. Riêng phần ghi dưới đây sẽ cho chúng ta thấy bàng bạc hình ảnh anh Yến hồi còn rất trẻ qua ký ức của ông về Sài Gòn những năm tháng 1950s. Phần ghi này trích từ “chương trình” nói chuyện giữa Đỗ Ngọc Yến và bạn bè vào cuối năm 1999. Chúng tôi thường nêu ra với anh Yến các thắc mắc về những điềuxẩy ra trong giai đoạn trước đây chúng tôi chưa hiểu rõ, và Anh trả lời như một đóng góp hiểu biết của Anh. Về đề tài “Thời nhỏ của anh Yến”, chúng tôi gồm Phạm Phú Minh, Hà Tường Cát và Đỗ Tăng Bí thay nhau nêu câu hỏi...


ĐTB: Thưa anh Yến, nhiều người vẫn nói anh là một người “hoạt động”, hay “năng động?”, từ lúc tuổi còn rất nhỏ, nên người ta cũng nói rằng anh bị công an bắt, rồi anh bị đuổi khỏi trường Petrus Ký, vì có liên quan đến vụ đám tang Trần Văn Ơn? Anh có thể kể lại sinh hoạt giới trẻ thời đó?
ĐNY: Đó chỉ là lời đồn đãi, vì lúc Trần Văn Ơn chết tôi còn học tiểu học. Để tôi thuật lại vài hình ảnh hồi đó cho các bạn thanh niên nghe cho vui.
Khoảng 1950, có một đoàn tàu Mỹ đến giao phi cơ quan sát và thả bom nho nhỏ cho Pháp, đậu ở bến Thủ Thiêm. Bên kháng chiến, lúc đó người ta vẫn gọi những lực lượng chống Pháp là “kháng chiến”, xách động sinh viên học sinh biểu tình, nhưng hồi đó có rất ít sinh viên cho nên phải nói đó là cuộc vận động học sinh do “nội thành” tổ chức.
Cuộc vận động này bắt đầu từ giới tiểu thương ở chợ, mấy bà buôn gánh bán bưng ở chợ Bến Thành đình công bãi thị, nối lại không khí thời 49. Sau đó đến đám học trò tiếp tay, kéo đến dinh Thủ Hiến đưa kiến nghị (năm chót của Thủ Hiến Trần Văn Hữu). Đám biểu tình tụ tập tại cây da trước cửa Tòa Án. Mấy tòa nhà lớn ở trung tâm thành phố gồm bên này là dinh Gia Long, bên kia là tòa án, bên kia là khám lớn. Lúc đó khám lớn còn y nguyên, gọi là số 69, sau này là Đại Học Văn Khoa, rồi quán cà phê nổi tiếng tên là “Quán Văn” cũng hoạt động trong khuôn viên đó. Một năm sau, Nguyễn Văn Tâm lên mới quyết định phá bỏ khám lớn.
(Về việc phá bỏ khám lớn: Ngày đó Nguyễn Văn Tâm dùng búa đập tường, -họ có bắt học sinh đi xem- lúc đó tôi học Đệ Thất.)
Vào lúc biểu tình của học sinh trước dinh Thủ Hiến thì tôi học tiểu học, trường Ngô Tùng Châu, không biết gì, chỉ thấy ồn ào ngoài phố xá. Trong lớp có mấy anh lớn -thời đó có hiện tượng mấy anh khá lớn mà đi học lớp nhỏ là vì chạy giặc bỏ học hành ba bốn năm- cho nên có những lớp mà tuổi tác học trò cách nhau 4, 5 tuổi. Có gia đình gồm 4 anh em từ Bắc vào ở căn nhà ở khu Bàn Cờ sau lưng CaoThắng -lúc ấy Bàn Cờ còn trống trơn- bốn anh em cùng học lớp nhì, lớp ba với nhau. Anh lớn nhất tên là Vinh, dẫn dắt cả bọn này đi biểu tình.Chỉ biết lộn xộn kéo nhau đi. Đi từ chỗ Ngô Tùng Châu đến Ngã Sáu, nhưng mình cũng không đến được tới đường Gia Long.
Sau đó là các trường bãi khóa đi vòng vòng các đường phố, mình được nghỉ học cũng vui. Nhưng đến lúc có đám tang Trần Văn Ơn thì ai cũng đi.
Theo tôi còn nhớ, đám tang để quan tài ở chỗ Trường Sư Phạm sau này. Tại khu đó có bốn tòa nhà ba tầng thì xác để tòa nhà đầu tiên. Trước đó xác ở nhà thương Chợ Rẫy - chết trong đó rồi đưa về - sau này đưa vô chôn ở Chợ Lớn.
Trò Ơn đang học Tú Tài -chưa thi Tú tài- Lúc đó Tú tài giống như Cử nhân bây giờ, sang trọng lắm! Đám tang đã trở nên một cái gì rất là nhân dân. Lúc ấy tôi cũng không hiểu tại sao đám tang lại được tổ chức to lớn như vậy. Sau này nhờ những người như ông Quỳnh (Nguyễn Đức Quỳnh) giải thích mình mới hiểu rõ. Tức là thời gian đó guồng máy chính trị của người Pháp ở miền Nam VN họ cố tình thả nổi một số hoạt động cho cán bộ kháng chiến điều khiển. Để yên cho họ hoạt động tưng bừng - thứ nhất là để cho nổi lên, thứ hai là chứng minh với Mỹ là CS mạnh như thế, tràn ngập như thế đó để cho Mỹ viện trợ. Thành thử về phương diện văn học thì nhóm văn học xuất bản -nhà xuất bản Nam Việt, Thần Đồng, Sống Chung in sách Đệ Tam Quốc Tế, sách tùm lum, nhất là sách của bộ ba Tam Ích - Thiên Giang - Thê Húc. Đại khái lúc đó rất hỗn quân hỗn quan.
Hồi đó tôi nhớ có đi dự đám tang -với bà cụ- Đi xe xích lô và đi bộ. Nơi chôn ở xa lắm, tuốt Chợ Lớn, nhưng lúc về thì mấy ông xích lô không lấy tiền, gọi là ngày ủng hộ bà con.
Lúc đó là Tháng Giêng. Ngày chết của Trần Văn Ơn là mùng 9 tháng Giêng. Cho nên sau này ngày 9 tháng Giêng là ngày sinh viên học sinh là vậy.

ĐTB: Như thế vụ Trần Văn Ơn ảnh hưởng rất nhiều tới sinh hoạt của học sinh hồi đó?
ĐNY: Thực ra câu chuyện như thế này: Từ đó về sau Trần Văn Ơn là biểu hiện sự bất khuất của giới thanh niên, trước khi hình ảnh đó bị hoà nhập với cộng sản. Con người Trần Văn Ơn thế nào thì mọi người cũng không hiểu rõ và cũng không ai ra nói là họ hàng hay anh em để thừa hưởng gì cả, do đó khuynh hướng chung coi như tượng trưng cho lớp trẻ hy sinh. Bây giờ, có một số người ở tại Quận Cam từng học Petrus Ký cũ cùng thời với Trần Văn Ơn, nói rằng Trần Văn Ơn chỉ là một học sinh trung bình đi theo đoàn biểu tình và là nạn nhân của một viên đạn vô tình chứ không phải là người lãnh đạo, cũng không phải là người cầm đầu. Nhưng ít ra anh cũng là người tham gia nhưng không có gì đặc biệt cả. Cho nên đó cũng là một chi tiết thôi. Ngoài ra khi Trần Văn Ơn chết thì chôn tại miếng đất ở nghĩa trang Đô Thành phụ -nó là miếng đất nhỏ nằm trước sân đá bóng Cộng Hòa. Trước sân Cộng Hòa có mấy đường nho nhỏ mà người ta hay dùng tập lái xe hoặc thi lấy bằng lái xe hơi -đường ngăn ngắn ô vuông- Nhưng sau 75, nghe nói là mộ cũng bị bốc sang chỗ khác, tức là mộ cũng không được săn sóc chú ý lắm. Nhưng cho đến gần đây ngày 9 tháng Giêng vẫn là ngày Sinh viên Học sinh.
Nhưng đối với trường Petrus Ký, vì chuyện đó cho nên ngày 9 tháng Giêng hàng năm bao giờ cũng là ngày căng thẳng trong trường bởi vì thế nào cũng có một cái hình thức kỷ niệm nào đó được tổ chức ngấm ngầm, không phải trong khuôn viên trường mà một địa điểm nào đó. Bàn Cờ là một trong những địa điểm tổ chức. Đại khái có một số người bí mật tụ họp làm lễ kỷ niệm. Lễ kỷ niệm mang màu sắc huyền thoại gay cấn. Sau đó các học sinh của trường Petrus Ký tham gia những cuộc đấu tranh này nọ thì hầu như năm nào cũng có. Lúc nào cũng có tin anh này, anh kia bị bắt. Có hai lứa, một là khoảng Đệ Nhị hay Premier chương trình Tây và một lứa từ đệ Tứ trở xuống. Đám lớn thì còn ý thức và trưởng thành già dặn, đám nhỏ thì thường là bị lôi cuốn vào phong trào. Sau này nghe nói các anh em đó -sau năm 54- là những người nối vào thời kỳ đấu tranh hiệp thương -lúc chưa có Mặt Trận.
Nói về học sinh lúc đó, về hoạt động của họ, phải nói về bọn trẻ hơn những người trên, nằm trong bọn học sinh ở tỉnh về Sàigòn trọ học. Họ ở chung trong các khu với nhau, nhà bao giờ cũng nằm ở trong các khu kiểu như Bàn Cờ, Lê Văn Duyệt, cũng có khi ở trong các khu nội trú nào đó. Và họ có tính cách đoàn thể lắm. Họ giúp đỡ lẫn nhau, người này đi làm lấy tiền giúp người kia đi học hay là mỗi ngày lễ họ kéo nhau đi về tỉnh Bến Tre, Bình Dương, Biên Hòa, ra bến xe đò đi nửa ve,ù nhiều khi không có tiền cũng được. Trong căn nhà trọ của họ không có giường chiếu gì cả, chỗ nào cũng thấy một đống sách, sách kê thành giường thành ghế thành gối. Rõ ràng họ có đoàn thể, có tổ chức. Sau này cao hơn họ có cô Năm chú Ba này kia, người thì tiếp tế bánh mì, người thì tiếp tế xôi, khi thì làm công tác xã hội, khi thì làm công tác nghĩa thục, theo những truyền thống lâu đời từ trước. Thành ra một hệ thống như vậy lợi hại lắm. Từ đó đẻ ra các phong trào, sau này từ đó mà Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) huy động được tất cả. Tới lượt MTGPMN bị người khác huy động cho tới lúc thành công thì họ bị giải thể luôn đó là một vấn đề khác.
Trở lại các buổi lễ truy điệu, thì tổ chức hát ở bờ sông, truy điệu vừa hát vừa run, cảnh sát hồi đó họ cũng khôn khéo lắm, họ không bắt ngay tại chỗ, họ để giải tán rồi họ mới bắt. Tất cả những vụ đấu tranh nội thành hồi đó không bao giờ bị bắt trong lúc hội họp hay bị bắt trong lúc xảy ra công tác, biểu tình, mít tinh, hội họp. Bao giờ cũng để nhữngn người hoạt động về rồi họ bắt tẻ ra, bao giờ họ cũng bắt các người cầm đầu. Thường thì họ tìm ra những học sinh trong Ban Đại Diện mà bắt.
Ban đại diện (các lớp học sinh) thì có hai ba loại, có những học sinh học giỏi thì được cử làm ban đại diện, rồi bị lôi kéo vào phong trào đấu tranh, họ không ở trong ban tổ chức, cùng lắm là cảm tình viên này kia thôi. Chỉ khi nào họ bị bắt và rơi vào hệ thống đàn áp thì sau này có khi họ được móc nối tổ chức thì họ trở thành tham gia xã hội. Còn các cán bộ thật sự của tổ chức thì họ lẩn tránh đàng sau những Ban đại diện, nên họ bảo toàn được nhân sự của họ, họ làm cái công việc đưa người này đẩy người kia ra thôi, họ đi kiếm phương tiện mang về thôi. Thành thử cái guồng máy an ninh điều tra phải mất nhiều chặng mới đụng được đến cái thành phần cao hơn nữa là cố vấn.
Về đám cố vần này, họ không phải là ở trong trường, đôi khi năm thì mười họa là giáo chức, thực sự họ là người ở ngoài, họ là anh bán bánh mì, hay anh công nhân hay anh thân sĩ nào đó. Nghĩa là có thể họ rất trẻ, trẻ hơn đám học sinh chừng một chút, họ có thể già dặn hơn một chút. Cao điểm nhất là thời kỳ đấu tranh hòa bình năm 1964 - 1965, và sau đo tất cả hệ thống này mới biến mất.
Biến mất đó là vì họ bị các guồng máy an ninh Sài gòn cô lập triệt tiêu. Lúc đó thì họ đã đẻ ra nhiều phong trào khác nữa hợp pháp hơn, công khai hơn, cơ sở hơn. Thí dụ như Phong trào tiểu thương, phong trào giáo chức, phong trào này kia từ 68 - 72 mà mình gọi là phong trào Đòi Quyền Sống mấy chục đoàn thể.
Tóm lại những phương pháp đấu tranh như thế này ở Việt Nam nó có từ thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, những phong trào họ dấy lên sau đó là Đông Dương Đại Hội, sau đó là thời kỳ Mặt Trận Bình Dân thì nó được hợp pháp công khai đến lúc chấm dứt Mặt Trận Bình Dân thì người Pháp bắt hết tất cả những người hoạt động, người ta đưa đi giam các nơi trước ngày Đệ II Thế Chiến.

ĐTB: Cái hồi bắt những người tham dự các buổi truy điệu lẻ tẻ đó, anh cũng bị bắt?
ĐNY: Hồi đó tôi còn nhỏ quá, hồi đó cái vụ truy điệu đó tôi không phải là cánh “tổ chức”, đôi khi tôi chỉ tham dự. Sở dĩ tôi tham dự là vì lúc đó tôi là hướng đạo sinh, hướng đạo mình thường khuyến khích đoàn sinh đi đâu mình cũng tích cực, mình đóng cái vai phục vụ, thí dụ như ăn uống mình phục vụ bằng cách tổ chức cho người ta ăn uống, đưa đón mình tổ chức đưa đón, trật tự này kia nhưng mà thực sự mình không biết chương trình. Nghĩa là chuyện đó định làm như thế nào thì mình không biết, nhưng thấy có một số người tập họp thì mình xoay ra “tổ chức” thế nào cho cuộc họp có trật tự.
Đó là năm 1955, nhưng từ năm 1956 tôi đi sâu vào chuyện sản xuất báo, báo bí mật, báo lậu. Đến năm 1957 thì tổ chức hội họp bí mật. Đến năm 1959 tôi mới bị bắt.


ĐTB: Nghĩa là anh vào “nghề báo” từ năm 1957? Anh làm báo lậu dưới hình thức “in” từ hồi đó?
ĐNY: Báo in ở đây là báo in bột, tức là bột thường, bột gạo, nhưng có điều đặc biệt là mực in phải mua ở tiệm bán ở đường Catinat. Lọ mực đó là loại mực của Ấn Độ. Lọ mực cũng đắt tiền, lúc đó đi mua lọ mực cũng bằng bao anh em đi một chầu ciné. Mực chà lên bột, mực thấm vào, rồi lăn bột lên từ tờ giấy này qua tờ giấy kia, lăn độ chừng ba chục trang thì bột xộc xạch và chữ ngoằn ngoèo hết, đôi khi muốn làm nhiều phải in hai lần. Sau này người ta gọi in sương sa thì cũng là nguyên tắc đó hết. Thực ra thì cái đó chỉ là chuyện học tập làm công tác, thực sự nội dung của những tờ đó không có gì đặc biệt.


ĐTB: Như thế có phải vì các hoạt động như tham dự các buổi họp bí mật, các buổi truy điệu, và vì việc in báo lậu mà anh bị bắt?
ĐNY: Thực ra cũng không hẳn vì những hoạt động đó, nhưng cứ cái máu hoạt động, cái máu hướng đạo hay lăng xăng tham gia, khi các ban đại diện học sinh hội họp làm kiến nghị phản đối gửi Tổng thống và Quốc hội thì thế nào mình cũng dính vào. Nhưng đúng ra mình không bị bắt.


ĐTB: Anh có thể nói rõ về vụ kiến nghị đó? Có dính vào mấy cái vụ Trần Văn Ơn?
ĐNY: Trên nguyên tắc vụ kiến nghị không dính vào mấy cái vụ như Trần Văn Ơn. Hồi đó, tự nhiên mấy ông bên Bộ Quốc Gia Giáo Dục hay mấy ông nào đó cho ra quyết định những ai đỗ bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp hạng từ Bình Thứ hay Bình gì đó trở lên mới được vào học lớp Đệ Tam trường công. Như thế là họ đẩy một số lớn học sinh không cho học đệ nhị cấp. Thành ra phía học sinh phản đối. Các Ban Đại Diện hội họp rồi làm kiến nghị. Kèm theo việc phản đối quyết định trên, thì cũng có thêm một hai yêu sách nữa có tính cách chung chung cho toàn bộ học sinh các lớp. Tôi thì không thuộc một ban đại diện nào, nhưng như trên đã nói, cứ cái tính hướng đạo, cố giúp họ tổ chức công việc sao có hiệu quả, nên cuối cùng tôi là người mang gửi những bản kiến nghị đó cho Tổng Thống, Quốc Hội,... Muốn cho chắc ăn, tôi ra bưu điện gửi bảo đảm.
Từ bản kiến nghị đó họ đưa đâu khoảng 14 người ra trước tòa, trong đó là 12 người đại diện của các ban đại diện học sinh, những người đã ký tên vào các kiến nghị. Trong nhữngngười ký tên có năm bảy người loại hoạt động, có những người vì là vào đại sau đó gia đình lo cho họ thoát được, họ học hành tiếp tục bình thường không có gì hết, có những người cũng bị sổ đen sổ đỏ hoài, có những người thoát ly luôn. Trong trường hợp tôi, tôi là người không có ký tên trên văn kiện nào hết, nhưng mà tôi lại ký trong hai cái loại văn kiện hành chánh, vì khi gửi những bản kháng nghị lên cho Tổng Thống và Quốc Hội thì phải ra bưu điện gửi bảo đảm, và hồi đó muốn gửi bảo đảm cho Tổng Thống và Quốc Hội thì họ biên căn cước của mình, thành ra nó có vẻ là một người tổ chức ở một dạng nào đó.
Có lẽ trong trường hợp của tôi là tôi hoạt động khá độc lập thấy cái gì tiện mình làm chẳng phải mình thuộc hệ thống nào, do đó nó cũng theo truy mãi, cũng theo dõi mình và để đấy thôi. Nhưng đến lúc đưa ra tòa thì lại lấy cái tên tôi gọi là Vụ án Đỗ Ngọc Yến và các đồng lõa.


ĐTB: Nghe nhiều người kể lại hồi đó vụ án mang tên anh cũng xôm tụ lắm, cũng cái kiểu “anh hùng” ấy mà. Người ta lạc quyên, người ta biểu tình, những chuyện trên có đúng không?
ĐNY: Cũng chẳng có gì to tát lắm đâu. Đại khái như thế này. Cả bọn ra tòa cuối tháng Giêng năm 59. Cũng lại là một kinh nghiệm nữa. Đó là tự nhiên không biết từ đâu có bao nhiêu luật sư đến để đề nghị biện hộ miễn phí. Một số trong các ông luật sư này là những ông đầu tầu của mấy ông tranh đấu sau này. Như vậy mình phải hiểu rằng mấy ông ấy đã được “bên kia” yêu cầu yểm trợ. Lúc xử án, lại nảy ra phong trào nhịn ăn điểm tâm để dành tiền trả luật sư biện hộ cho mấy người bị ra toà.
Đến ngày tòa xử lại có bãi khóa, học sinh vây nghẹt tòa án các song sắt hàng rào tòa án bị bám nghẹt. Chúng tôi phải khó khăn lắm mới vào được. Vì chúng tôi bị đưa ra toà chứ không bị bắt giam, ở nhà rồi tự đi hầu toà.Đến lúc chúng tôi vào đến toà, tập hợp điểm danh xong thì ông tòa nói là đình vô hạn định.
Đình mà đình vô hạn định thì tức là ai về nhà nấy.


ĐTB: Mặc dù bản án không có, nhưng anh vẫn bị trường Petrus Ký đuổi học? Điều đó khiến cuộc đời anh có thay đổi.
ĐNY: Tôi từ toà án đi về trường, lúc đó tôi học đệ nhị. Vừa đến trường thì hai ông giám thị chờ sẵn kẹp cổ tống ra ngoài cửa trường và bảo từ rày trò không được trở lại trường này nữa vì sáng nay hội đồng giáo sư họp đã đuổi học vĩnh viễn. Đó là khoảng cuối Tháng Giêng năm 1959. Buổi sáng đi thẳng ra toà, rồi về trường thì bị đuổi. Lúc đó tôi đang là Trưởng Ban báo Chí của trường. Để lại đống bài vở cho các bạn trong ban, xin đi lấy xe đạp, rồi lững thững đạp về nhà. Đạp xe đến nhà thì ông cụ đã được báo là tôi bị đuổi học từ sáng rồi.
Sau buổi sáng đó tôi đi khỏi trường Petrus Ký.
Thành ra trong cuộc sống đời tôi có khác với nhiều bạn khác. Bình thường, ở mỗi lứa tuổi người ta có một số kỷ niệm, một số kinh nghiệm giống nhau. Thí dụ ở tuổi mười mấy thì có những kinh nghiệm đúng với tuổi đó. Ở đây, tôi có những kinh nghiệm hơi sớm trước tuổi, ngoài kinh nghiệm đi học, mà lại không có kinh nghiệm hồi còn bé như đánh đáo, đánh điếc, bắn chim.
Nó cũng là hoàn cảnh chiến tranh. Chiến tranh trong nước ta xảy ra trên hai ba bình diện, nội chiến, ý thức hệ này kia, không phải bây giờ người ta mới tận dụng đám trẻ con như làbên Phi Châu, đám trẻ 13, 14 tuổi cầm khẩu súng bazoka hay là mặc bộ đồ lính của người lớn nom nó buồn cười. Thời đó người ta cũng sử dụng trẻ con nhưng mà tinh vi, vô cùng tinh vi, hệ thống lớp lang và nó có một kinh nghiệm là mấy chục năm ở Việt Nam, Trung Quốc, ở ngoài Bắc vào trong Nam mấy chục năm, mấy thế hệ như vậy.
Thành thử cái đó đối với Tây Phương đó là cái gì nó hơi lạ nhưng đối với xứ nông nghiệp, xứ Đông Nam Á mình thì nó thành là chuyện bình thường ai cũng có thể trải qua được. Đó cũng là cái điều mà người Mỹ không hiểu được về đất nước, con người Việt Nam.
Đôi khi có những người rơi vào giữa cuộc chiến của hai hệ thống, bị hút vào đó như một cơn lốc.


HTC: Anh Yến đã có thời gian nào đi tản cư trước 54?
Đ.N.YẾN: Trong trường hợp của tôi, trong giai đoạn tản cư có xảy ra nhưng ngắn và gần, nghĩa là chỉ chung quanh Sài Gòn chứ không đi xa. Hồi đó tôi đi tản cư ở Lái Thiêu (mấy vườn sau này mà chúng ta đi cắm trại ăn trái cây), để tránh Nhật bỏ bom tại Sài Gòn vào cuối 44 đầu 45. Tôi không có cuộc tản cư lớn. Nhưng lúc biểu tình 25 tháng 8, sau này ông Tạ Thanh Sơn đặt bài hát, “Mùa thu rồi ngày 23 ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến...,” thì đó là ngày 23 tháng 8 có cuộc nổi dậy giành độc lập theo lệnh Tổng bộ Việt binh, còn vụ 2 tháng 9 là sau nữa.
Trong đầu óc tôi là những cảnh nên thơ, tản cư là các cụ thuê các xe cá. Xe cá là xe ngựa kéo, nhưng xe cá có ít nhất hai con ngựa kéo Còn xe ngựa, xe thổ mộ, chỉ có một con ngựa thôi. Xe cá giống như xe minivan, phía trên rộng có thể để tủ lớn chồng lên nhau. Xe cá này chở người tản cư từ Sài Gòn về phía ngoại ô, thường thì chạy về Lái Thiêu hoặc Tân Quy vì ở đây có nhà vườn nhiều. Người dân Sài Gòn chạy về đó đồng bào tại đây cho tá túc. Những nhà tá túc về sau, khi đến năm 54-55, tôi hay đạp xe đạp về vùng đó chơi, đi thăm những cụ già. Đặc biệt năm 55 tôi đạp vô vườn chơi, có chứng kiến một cảnh, sau này mới vỡ lẽ ra, lúc đó tôi khoảng 13-14 tuổi, tôi thấy mấy ông nông dân mặc quần áo đen ngồi đầy, đông lắm, ngồi rất trật tự, sau này tôi mới hiểu là mấy ông tập kết.
Nhưng hình ảnh tôi nhớ rõ nhất là cái hình ảnh mà trong sử cũng nói, là dân ở Uỷ ban hô hào dân chúng xuống đường đi ra đường Catinat, ông già tôi đã dắt tụi tôi đi từ sáng sớm, ghé tiệm Tàu đầu đường làm ly cà phê mà ông Bình Nguyên Lộc từng mô tả là “đổ ra cái dĩa” uống, lúc đó tôi khoảng 4 tuổi.
Sau đó cảnh nhớ nữa là cảnh Tây đi xét nhà. Đầu tiên chúng chỉ xét thôi, xong có mấy người Việt Nam đi theo bắt mở tủ, rương... ra, rồi thấy đồ đạc chúng lấy đi. Tụi Tây và người nhà mình thấy vậy thì bắt phải trả lại. Nhưng cái cảnh bắt đầu biết sợ là sợ cảnh bị Tây bố. Hồi đó cứ sáng sớm: “đi bố, đi bố” nghĩa là Tây bao hết vùng đó, trước cửa trường Nguyễn Bá Tòng, tất cả đàn ông bị lùa hết ra ngoài khu đất trống, nằm trước cửa nhà tôi. Tất cả ngồi chồm hổm, hai tay để lên đầu; đàn bà con nít thì đứng lóng ngóng quanh đó. Sau đó bị lên xe “cây” chở về bót. Sau rồi đến “bao bố nhìn mặt” nghĩa là cho những người đi nhận diện, những người này thì được chụp bao bố lên đầu. Tên nào bị nhìn mặt và gật đầu thì bị giữ lại, không có thì cho về. Về sớm nhất là những ông công chức, gần nhà tôi có mấy ông công chức Sở Hỏa Xa. Sở Hỏa
Xa không phải là của nhà nước nhưng có chế độ công chức nên được ưu tiên. Và từ đó trong đầu tôi có ý niệm thế nào là công chức, công chức thì oai quyền lắm, làm công chức thì an ninh, rồi được về trước cho đi làm. Chờ đến chừng 10-11 giờ nghe nói ông già được thả về thì mừng, còn giờ đó không được thả về, mà tin “bao bố trùm mặt” gật đầu thì chết. Đây là những giây phút điếng hồn của những gia đình lúc bấy giờ. Vài năm sau thì lựu đạn nổ ngay trước cửa nhà. Hay trong những năm đó, hình ảnh những ông Việt Minh cứ đến nhà xin tiền bố tôi — thời đó thanh niên ngày ấy ai cũng tầm vông vạt nhọn đi quanh quanh khu phố — hay có những ông bạn già đến nhà... và sau đó mới biết rằng đó là những ông Việt Minh, nôm na là những người bị bắt rồi thả ra. Thường những người được thả ra bị đánh đập xơ xác rách mướp, đau ốm ho lao, phải đi loanh quanh xin tiền. Những gia đình bình thường dù muốn dù không ai cũng giúp đỡ. Và những cảnh này cứ trở đi trở lại hoài.
HTC: Đó là thời dưới chế độ của Tây. Còn hồi nhỏ anh cũng không có một thời gian nào sống dưới chế độ Việt Minh?
Đ.N.Y: Không. Nhưng ngược lại tôi lại hoàn toàn sống dưới chế độ mà bên kia gọi là “tạm chiếm.” Nhưng vì lý do đó tôi liên hệ (đến phía Việt Minh) nhiều nhất là khi vào học ở Petrus Ký, Petrus Ký là cái ổ! Khi tôi vào Petrus Ký thì vừa xảy ra vụ Trần Văn Ơn được hai năm, cao trào này đang từ từ đi lên. Trong trường Petrus Ký lúc này học sinh đi học là một chuyện nhưng mặt khác bị chi phối quan tâm đến một lối sống khác: họp hành, đọc sách báo này nọ... Nhà tôi lúc đó ở Bùi Thị Xuân, gần khu Bàn Cờ, Lê Văn Duyệt thì có hai bãi đất trống bán sách báo cũ — cũ đây là cách đó chừng 3, 4 năm thôi — các sách vào thời kỳ bắt đầu kháng chiến, mà đặc biệt là toàn là sách báo kháng chiến. Dần dần có sách báo của Thông Tin Hoa Kỳ. Những cuốn sách đầu tiên của Thông Tin Hoa Kỳ vào truyền bá về thế giới tự do. Tôi nhớ là báo Thế Giới Tự Do số hai là tôi đã được trông thấy, và tôi biết tòa soạn của Thế Giới Tự Do đặt ở lầu 4 tại phố như thế nào, mà khi đó tụi con nít chạy đến, tìm cách chạy lên thang máy vì hiếu kỳ.
Những cuốn sách đầu tiên được dịch ra là cuốn “Đêm hay ngày” của Koestler, cuốn “Tôi chọn tự do, chọn công lý” của mấy anh đi trốn ở Nga thật dày; trong đó cũng có những cuốn về văn hóa Mỹ như “Dũng sĩ da đỏ,” rồi “The Last of Mohican” của P. Coopper, lúc đầu là mấy cuốn đó. Rồi đến thời kỳ ông Diệm từ năm 1954 trở đi, mới dịch những loại sách văn học như cuốn “Kho tàng phiêu lưu” của Tom Sawyer, “Đôi bạn phiêu lưu”... Nhưng trước đó, những cuốn sách khác đều là sách chính trị hết, duy có vài cuốn về văn hóa như “Bác sĩ Aerosmith” của Sand Lewis có thể nói là sách nói hoàn toàn về Mỹ. Có một cuốn nổi tiếng “Tẩy Não Tại Trung Hoa Đỏ” (1949)...
Trong trường hợp của tôi, tôi khác với nhiều bạn vì tôi là một thằng bé lớn lên hoàn toàn trong thành phố, thành ra hai loại tranh đấu này tôi quen từ bé đến lớn: tranh đấu nội thành và công khai hợp pháp tranh đấu dưới một chế độ chính trị đặc biệt nào đó. Lúc đó mình đủ sức tò mò để nghĩ tại sao có sách như thế này, mà lại có thể phổ biến được, nhưng không hiểu tình hình chính trị ra sao? Sau này có một người thông thạo vấn đề đó cắt nghĩa mới hiểu. Lúc đó chính phủ Sài Gòn người ta để tình trạng như vậy để người Mỹ quan sát thấy là có tài liệu cộng sản khắp mọi nơi, hoạt động cộng sản tưng bừng khắp ngõ, để người ta sợ chế độ cộng sản mà ủng hộ viện trợ cho phe Tây ở Việt Nam.


HTC: Lúc đó anh đã đọc được những sách của ông Hoàng Văn Chí chưa? Cuốn mỏng, nhỏ cũng do Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản?
Đ.N.Y: Sách Thông Tin Hoa Kỳ, tôi đã xem xét từ đầu, bởi vì từ năm 49 hoạt động, thì mấy năm đầu chưa có loại sách đó đâu. Hai cuốn của Thông Tin Hoa Kỳ lúc đó nổi tiếng nhất là cuốn sách hình “Tám bậc vĩ nhân” (Hoa Kỳ) trong đó có từ ông Washington đến ông Jefferson rồi ông Headman rồi trong đó có một ông Tây đen là ông B. Washington (?), rồi một ông thi sĩ Whitman, rồi ông G. Nixon... Rồi đến báo Thế Giới Tự Do, số đầu tiên thì tôi không biết nhưng tôi biết số Thế Giới Tự Do 2. Còn nhà xuất bản của Thông Tin Hoa Kỳ lúc đó được đặt tên là Tân Á. Rồi báo Sức Mạnh và Tự Do, đây là báo người ta bỏ... nhà cầu. Tôi có đọc một đoạn trong tờ báo này về “Đêm hay Ngày” và bắt đầu hiểu, khi ấy tôi khoảng 11-12 tuổi, hiểu rằng cuốn này đặt đề tài là nếu anh chấp nhận thế này thì anh là cộng sản rồi, tức là ở đời quan trọng nhất là tự do với cơm áo, nếu anh muốn có cơm áo thì phải chấp nhận cộng sản, còn chấp nhận tự do thì phải cãi nhau với cộng sản.
Hồi đó sách vở cũng đủ sức để dạy cho mình những hiểu biết, lúc đó tôi chừng mười mấy tuổi.


P.P.M: Anh Yến vừa nói lúc nãy là ở trường Petrus Ký thời ấy là cái ổ. Tôi cũng hiểu được đó là cái chỗ mà ông Huỳnh Văn Tiễn, Lưu Hữu Phước... những vị mà sau này nổi tiếng về cách mạng, đó đúng là một chỗ quy tụ những trí thức yêu nước, những người ý thức về thân phận của dân tộc của đất nước để bắt đầu tranh đấu. Truyền thống đó đã tiếp tục cho đến vụ Trần Văn Ơn, đây cũng là một yếu tố nuôi dưỡng, mà sau này khi tôi vô học Petrus Ký tôi cũng thấy không khí đó ở trong lớp học sinh cũ của Petrus Ký. Khi chơi với các anh Yến, Lê Đường, Trần Đại Lộc là còn hào quang của những năm cuối 40 đầu 50, còn phảng phất tại Petrus Ký. Chuyện hoạt động bí mật thời đó thì coi như là những thần tượng.
Đ.N.Y: Nói tóm tắt là nó có những truyền thống, và hai là nó có nề nếp rồi. Nghĩa là lớp nào nó cũng có những người, hai ba loại: loại lăng xăng có liên hệ với những tên hoạt động lớn hơn chừng hai, ba tuổi, hai ba lớp hay là thân nhân ở ngoài. Trước đó thì nó không có gì hết nhưng sau bị ảnh hưởng của những anh kia. Trong trường hợp tôi, trước đó tôi không có liên hệ với ai hết, nhưng lúc đó tôi là xì-cút (Hướng đạo). Trong xì-cút có dạy nhiều thứ như dạy anh phải là một thành phần nào trong lớp của anh, nghĩa là trong lớp cần gì thì anh phải tự nguyện v.v... Thầy giáo ở Petrus Ký cũng có nhiều thầy hóc búa như ông Giám thị, nhưng cũng có một số thầy luôn luôn kích thích tinh thần yêu nước của học trò. Tôi còn nhớ năm học Đệ tứ, một thầy giáo dạy Sử Địa, mà người này đã từng ở tù thời Trần Văn Ơn. Ông này đã dạy Sử trong tinh thần kích thích học trò. Thầy giáo này mê báo Đời Mới của ông Hoàng Thương lắm. Năm học Đệ tứ tôi đã có gần đủ số báo Đời Mới này (có khoảng 154 số) — đến tháng 4 năm 1955 thì tờ báo đóng cửa — tôi chỉ đi ra nhặt ở đầu đường bán lẻ. Ngày tôi bị ra tòa rồi đi tù tôi mang hết bộ đó biếu cho người thầy này. Khi ra khỏi tù, cảnh sát cứ theo điều tra xem mình bị ảnh hưởng bởi những ai, ai nói cho mình điều này, ai nói cho mình thế kia.


PPM: Anh vừa nói cái vụ bị ra tòa và bị đi tù, anh nói sơ lại chi tiết này một chút.
Đ.N.Y: Có hai lần. Thời kỳ đi tù đầu là năm 1957, lúc đó tôi 16 tuổi. Ông Minh học xong Đệ tứ (ở Miền Trung) để vào Nam học Đệ Tam, còn tụi tôi học dưới này Đệ Ngũ, Đệ tứ lên. Trước đó thì vẫn tự động lên Đệ Tam nhưng đến năm đó vào khoảng tháng 3, một thông tư của Bộ Giáo Dục là, từ giờ trở đi ai là học sinh Đệ tứ muốn lên Đệ tam phải đỗ “bình thứ,” nếu không có thì phải thi vào. Tự nhiên là tương lai của đại đa số bị đe dọa. Từ chuyện này đã phát sinh ra phong trào Kiến nghị. Vào khoảng đầu năm 1957, cả lớp có 40 chục người Kiến nghị thì đứa nào cũng ký vào hết, nhưng phải có một học sinh đại diện, mà thường học sinh đại diện này phải là người học giỏi trong lớp. Như thế có 10 lớp Đệ tứ có 10 lá thư như vậy. Mỗi lá thư đính kèm 30, 40 chục chữ ký. Chẳng những trường Petrus Ký làm thế mà tất cả những trường công ở Sài Gòn đều làm, (và người đại diện ký kiến nghị cho cả trường Trưng Vương là bà Dung (vợ anh Cát bây giờ). Thế là cả Sài Gòn kể cả trường Nguyễn Trãi, Chu Văn An đều ký, nhưng đến khi ra tòa thì không có những học sinh này. Chẳng những trường dưới miền Tây như Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho, trường Thoại Ngọc Hầu ở Phan Thanh Giảng cũng đều ký hết.
Khi kiến nghị thì phải đèo theo hai điều, là đèo theo học bổng, cải thiện về giáo dục. Phong trào này xảy ra đầu năm 57, đây là năm đầu tiên đấu tranh Chống Hiệp Thương. Trên nguyên tắc là năm 56 thì đòi Hiệp Thương nhưng hai bên lắc đầu nhau, đến 57 điều này xảy ra thì là con đẻ của chuyện kia thôi.
Các trường lớp được tổ chức họp tại Sài Gòn, rồi miền Nam mười mấy trường họp lại trong một nhà hóc bà tó tại Bàn Cờ. Tôi thì không đại diện lớp đại diện trường nhưng tôi lại là người tổ chức cuộc họp đó mà địa điểm lại không biết ai cho mượn (vì tất cả đều là bạn bè, người một tay). Tôi lại là người tổ chức đi lại, ăn uống và cuối cùng tôi là chủ tọa của buổi họp đó, bạn bè tôi thì được dặn để làm này nọ, còn tôi thì không ai dặn hết, chỉ vì tinh thần xì-cút mà có tinh thần tổ chức. Vì là chủ tọa cho nên sau đó tôi ra bưu điện gửi thư cho Tổng thống và Quốc Hội. Tất cả những thư từ lúc đó khi gởi cho hai cấp đó phải có số căn cước của mình, còn nếu gởi thư bảo đảm thì không thành vấn đề. Khi đưa căn cước là tôi thầm biết, “Me,ï lúc này là bắt đầu lãnh đủ rồi đấy nhá!” Nhưng đã lao theo thì phải tới luôn. Và dĩ nhiên là thơ không đời nào có câu trả lời. Thế là phải họp lại và xuống đường.
Cuộc xuống đường tại Nha Trung Tiểu học đường Lê Văn Duyệt trước cửa Tao Đàn, nơi trước là văn phòng Thủ tướng Ngô Văn Thinh ngày xưa treo cổ chết, mà tôi là đại diện của phe biểu tình 200, 300 trăm người với cờ xí. Tôi vào nói chuyện với ông Tổng Giám Đốc Trung Học Bùi Phượng Trì. Xong về nhà, đến ngày hôm sau thì mới thấy những bạn kia đến nói cảnh sát ở quận nhì quận nhất quận ba gọi tôi.
Mới đầu chỉ có 1, 2 thằng báo tôi còn không tin nhưng sau đó 7, 8 thằng báo tin thì biết đúng là nó đã lùa hết đám này ra rồi.
Thằng nào cũng báo tin cho biết là họ đang đi tìm xem vụ này có những ai. Đến lúc này tôi biết tình hình nguy đến nơi. Tôi dò hỏi thì biết cảnh sát đặc biệt miền Đông ở chỗ Mạc Đỉnh Chi, tôi đến trình diện, “Tôi đây không cần phải đi tìm.” Thế là cảnh sát giữ tôi ở đó.
Trong bản khai tại đó có những câu hỏi rằng: Những ý kiến này là của ai. Tôi biết vậy nên nhất định chứng minh rằng đó là ý kiến của chính anh em học sinh. Thế là tôi bị giam một thời gian sau đó thả ra. Trước khi thả ra tôi phải ký vào giấy cam kết phải báo cáo cho họ biết nếu có những ai tiếp xúc... Tôi ký xong về và suy nghĩ tìm cách báo cho mọi người biết là tôi đã bị theo dõi rồi các anh đừng liên lạc với tôi nữa. Nhưng tôi khám phá ra rằng tất cả những người chơi với tôi cũng đều đã được dặn như vậy hết rồi, nghĩa là không đứa nào liên lạc với đứa nào nữa. Thì rồi lại yên.
Trong năm Đệ tam đó, tôi đang hoạt động tưng bừng thì tự nhiên hoàn toàn bị cô lập. Sau đó vài tháng thì cũng có người đến liên lạc nhưng không phải là chuyện học sinh nữa mà lúc đó là họ liên lạc, mời tôi đi họp trong Tổng Liên đoàn Lao động, lập một nghiệp đoàn Văn Nghệ Sĩ, bây giờ là đấu tranh văn nghệ từ những rạp hát, cải lương, báo chí v.v...


PPM: Nghiệp đoàn văn nghệ sĩ? Lúc đó anh đã là văn nghệ sĩ, đã viết lách gì chưa?
Đ.N.Y: Tôi đâu có viết lách gì, nhưng đại khái mình là dân hoạt động. Rủ là tôi đi. Vô họp đây thì bàn bên cạnh là bàn công an. Tụi công an ngồi đó 24/24 để ghi lại tất cả những chuyện đó vì là đấu tranh công khai mà. Tôi lại nghĩ thầm, “đây lại là cái rắc rối nữa đây. Nhưng kệ, làm thì cứ làm.” Lúc này tôi cũng đã bắt đầu chơi với đám văn nghệ sĩ rồi nhưng cũng chỉ là tép riu thôi, nhưng vấn đề là hệ thống tổ chức tức là anh đã bị lộ phía học sinh rồi thì họ sẽ (đưa anh) vào sâu sang hoạt động khác, vì đây là một hệ thống có tổ chức mà. Sau đó khó khăn thì họ dặn tôi đừng liên lạc với Liên đoàn Lao động nữa, muốn liên lạc gì thì đi lên trên Hóc Môn, đi vào các vườn họp. Khi đi họp lên đường Chi Lăng, từ Chí Nhuận từ nhà ông Phạm Duy đi ngược về Bà Chiểu, cứ buổi chiều từ 4, 5 giờ muốn gặp thì đứng chờ ở đó có người đạp xe đạp ngang qua.
Rồi, như thế các bạn đã biết hồi nhỏ của tôi thế nào rồi đấy.

Tuesday, January 27, 2009

Nói chuyện với nhà báo Đỗ Ngọc Yến - 3


Sơ lược về Phong Trào Thanh Niên Thập Niên 1960 tại nước ta
Đỗ Tăng Bí
Hình: Phần lớn hình trong lọat bài này của Trần Đại Lộc & DVA
Cuối năm 1999, chúng tôi gồm những anh em từng làm việc chung với anh Đỗ Ngọc Yến, dùng lúc nhàn tản để hỏi thăm Anh về một số điều trong những tháng năm trước đây chúng tôi chưa rõ. Những điều này được nêu ra với anh Yến dưới hình thức nói chuyện, nhưng thực ra là chúng tôi nêu những câu hỏi và Anh trả lời như một đóng góp hiểu biết của Anh. Về đề tài thanh niên, chúng tôi gồm Phạm Phú Minh và Đỗ Tăng Bí, hỏi thăm Anh về “Phong trào thanh niên tại nước ta.” Những tiểu tựa do người ghi đặt để tiện theo dõi. Bài này do Đỗ Tăng Bí ghi, đã đăng trên nhật báo Người Việt Tháng Giêng năm 2004.

Bối cảnh và quan niệm

ĐTB – Gần đây chúng ta thấy tại địa phương chúng ta một số hội đoàn thanh niên Việt Nam có những hoạt động mạnh mẽ, các tổ chức, nhóm sinh viên gốc Việt tổ chức sinh hoạt mang tính cách đặc thù Việt Nam. Những hoạt động của thanh niên thường mang tính cách tiên phong của những phong trào. Do đó, đề nghị anh Yến nói về Phong trào Thanh Niên tại Miền Nam trước năm 1975 vì chúng ta cũng từng sinh hoạt trong khung cảnh chung của thanh niên, sinh viên, học sinh lúc đó.
ĐNY – Muốn nói về Phong trào Thanh Niên ở nước từ trước đến nay, trước hết phải nói đến cái bối cảnh lịch, xã hội mà phong trào đó sinh hoạt. Nói về bối cảnh đó phải dựa trên vài đặc tính, trước hết phải có tính cách biên niên, để làm những cái mốc mà xem xét; thứ đến, phải đưa đến vài quan niệm căn bản, và cái đó là cái nền, ai đồng ý thì cứ thế mà nói, mà bàn, ai không đồng ý thì cứ thế mà phản bác; thứ ba, phải so sánh được cái trước và cái sau, hay là cái ở trong và cái ở ngoài.
Bây giờ, nếu nói về anh em mình, là về phong trào thanh niên của thập niên 60 - nói rõ hơn là giữa thập niên tức là cái năm 1965, thì tôi nghiệm ra là trước đó, những phong trào thanh niên của các thập niên trước cũng đều nằm vào khoảng giữa thập niên, như năm 1945, hoặc năm 1925-26 thời đám tang Phan Chu Trinh và vụ xử án Phan Bội Châu, rồi năm 1905 là vụ Đông Du Duy Tân và ngay ngày mất miền Nam cũng vào năm 1975, sau đó sửa sai trong nước CSVN xảy ra năm 1985, rồi đến năm 1995 cũng nọ kia. Thành ra những năm lẻ như vậy, nói chung trong thế hệ mà chúng ta là chứng nhân rõ ràng, vừa là tác nhân vừa là chứng nhân, thì là đám 1965, còn đàn anh của mình là 1945, trước đó là 1925, tổ tiên là những ông 1905. Còn đám 1975, 1985, 1995 đều là đàn em sau này.

Phong Trào Thanh Niên Thập Niên 1960 (1965)





PPM – Thập niên 1960, hay nói theo kiểu anh Yến nêu trên, là những năm trước và sau 1965, Miền Nam Việt Nam qua rất nhiều biến động, do đó bùng nổ nhiều sinh hoạt của thanh niên. Anh Yến có thể phân tích xem những bùng nổ đó gồm những gì? Tại sao lại bùng nổ? Và chúng ta có nên nhắc lại những năm 1954, 1955?
ĐNY - Năm 1965 là năm Mỹ khai chiến ở Việt Nam. Cuối tháng 7 năm 1965, Tổng thống Johnson đọc diễn văn tại đại học Brookings. Sau này sử gia của ông Johnson công nhận ngày đọc diễn văn đó là ngày ông ấy tuyên chiến. Còn trước đó một năm, tháng 8 năm 1964, khi Quốc hội Mỹ biểu quyết nghị quyết vịnh Bắc Việt: Cho phép ông hành động, nhưng thực ra thì chưa có hành động nào nhiều, về cụ thể thì Mỹ chỉ oanh tạc có một lần, chứ chưa đánh nhau. Phải đến năm 65 mới đánh nhau. Hoạt động của thanh niên như thế coi như cũng bắt đầu bùng nổ vào năm 1965, nhưng cụ thể đã có chuẩn bị từ năm 1963, lần đầu tiên có một phong trào thanh niên kể từ năm 1954-1955.
Năm 1954 xẩy ra cuộc di cư của gần một triệu người Miền Bắc vào Nam. Đến năm 1955 xẩy ra chuyện thanh niên sinh viên học sinh tấn công khách sạn Metropoll, Majestic, nên năm ấy nẩy lên phong trào thanh niên trong nước, một phong trào ngắn gọn, đẹp và chính phủ lúc đó vận dụng thành phong trào nhân dân để đánh đuổi anh cộng sản miền Bắc, từ đó đi tới chuyện từ chối tổng tuyển cử một năm sau.Năm 1956 ông Ngô Đình Diệm có cớ và có sự tin tưởng hoàn toàn để trả lời "Không" đối với thư đề nghị của ông Phạm Văn Đồng. Đầu năm 1956, ông Phạm Văn Đồng gửi thư cho Thủ tướng Miền Nam, nhắc về vụ thi hành điều khoản trong hiệp định Genève rằng hai năm sau khi ký thì tổng tuyển cử, yêu cầu sắp xếp... Và ông Ngô Đình Diệm đã trả lời mạnh mẽ rằng xin lỗi ông, không có chuyện đó, chúng tôi có ký đâu mà chúng tôi thi hành? Rồi bên Mỹ lại ra tuyên cáo nói rằng Mỹ ủng hộ Việt Nam...Mỹ cũng không bị ràng buộc. Như thế phong trào thanh niên lúc này nổi lên là hành động dứt khoát phá vỡ vấn đề ủy ban liên hội quốc tế đình chiến. Phong trào thanh niên này chỉ bộc phát trong vòng một tuần lễ. Hiện nay vẫn còn nhiều ngưoi là chứng nhân, mà chứng nhân rõ ràng nhất là ông Nguyễn Mạnh Cưong, vì trong vụ này ông đã bị đập đầu vào tưong, và có thể bị điên, "thân tàn ma dại" sau này về chuyện đó. Lúc này chính phủ cũng làm hình thức là đưa các ông này ra tòa về vụ phá phách khách sạn nơi phái đoàn hà Nội ở, để che mặt ủy hội quốc tế. Bên trong thì cung cấp luật sư, rồi thăm viếng, nhưng cho biết rằng đến đó là thôi, chính phủ chỉ yểm trợ thanh niên đến mức đó. Nhóm ông Trần Minh Công cũng có dính dáng đến phong trào thanh niên lúc đó.
Tóm lại năm 1955-1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa hay sau Hiệp định Genève, có phong trào thanh niên hoạt động. Còn năm 1954 phong trào thanh niên chỉ là những buổi hội thảo về báo Sóng Đạo. Sinh hoạt thanh niên hồi đó đổ vào vấn đề lý thuyết vì đông đảo sinh viên hồi đó là thành phần đại trí thức của xã hội, đều phải chạy vào trong Nam, bỏ lại nhà cửa sự nghiệp ở miền Bắc, và đều có chung một câu hỏi lớn là "Tại sao như thế này? Rồi cái gì sẽ xảy ra nữa?" Nên từ đó đẻ ra tờ Ngưoi Việt, và đẻ ra tờ Sáng Tạo,... Như vậy phong trào này không có tính chất chính trị vì quốc tế làm chính trị giùm rồi - ký hiệp định Genève...
Như thế đến năm 1955 mới có phong trào thanh niên đánh cộng sản trong nước nhưng mãi đến năm 1963 mới có phong trào thanh niên chính thức, tại sao? Vì vụ Phật giáo trong nước. Sau này lịch sử nhắc lại về việc đàn áp Phật giáo trong năm 1963 không phải là động cơ chính để chấm dứt một nước Cộng Hòa, mà phải kể đến các lý do về sự bất đồng đường lối giữa các vị lãnh đạo miền Nam không nhận cho quân Mỹ vào Việt Nam khiến chiến thuật của Mỹ phải thay đổi, và vụ Phật giáo thành cái cớ - khó lòng mà đẩy đi xa tới chỗ nói rằng là nó đẻ ra vụ Phật giáo - nhưng có thể lý luận được rằng chính phủ Mỹ vận dụng vấn đề Phật giáo vào mục tiêu chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng Hòa, đó là một điểm mà trước đến giờ ít ai nhắc đến. Trong thời gian sắp tới bắt buộc phải làm sáng tỏ chuyện đó, nhất là khi có những tài liệu mới và khi có những sự tranh chấp giữa Phật giáo và Công giáo của ngưoi Việt Nam với nhau được đưa lên bình diện lịch sử và chính qui hơn.
Năm 1963 là năm giải tỏa sức mạnh của thanh niên, việc này nổ bùng vào ngày 25 tháng 8, tức là sau mấy ngày vụ đàn áp Phật giáo bị tấn công vào chùa Xá Lợi (20-8). Rồi một năm sau đó, 1964, có một buổi kỷ niệm 1 năm đấu tranh của sinh viên để đưa đến vụ hạ bệ ông Nguyễn Khánh. Nếu không có cái ngày kỷ niệm này thì cũng khó lòng tập họp dân chúng.
Trong năm 1964 thì phong trào thanh niên gồm một số đoàn thể sau:
- Số đoàn thể thanh niên chính thức được đăng ký trong Tổng Nha Thanh Niên vào cuối năm 63 vào khoảng 8 đến 11 đoàn thể, vì thời ông Diệm đã không cho một đoàn thể nào ra đoi. Những đoàn thể lúc đó là đoàn thể về tôn giáo: Sinh viên Phật giáo; Tin lành; các hội như Hội Thanh niên Hồng Thập Tự, Hội Thanh Niên Thiện Chí của quốc tế, hay tổ chức lâu đời và quốc tế nặng về giáo dục là Hướng Đạo.... Công giáo lúc đó thì có Hùng Tâm Dũng Chí, Thanh Sinh Công (là học sinh trung học), Thanh niên đại học Công giáo (ngưoi đi họp hội nghị quốc tế của Thanh Sinh Công lúc đó rồi lập ra hội đó là Nguyễn Hữu An, học Tabert.)
- Sáu tháng sau, tháng 3 năm 1964, sau khi ông Diệm bị ám sát, cái list của Hội đoàn thanh niên trong Bộ Thanh Niên lúc đó lên khoảng 40-50 đoàn thể, nhưng thật sự nó chỉ gap đôi số cũ là có tổ chức thôi.
ĐTB – Anh vưa điểm qua những đoàn thể thanh niên của thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Nhưng còn một lực lượng thanh niên có từ lâu đời, từ 1945 đến nay, đã nhiều lần đóng góp những hoạt động mạnh mẽ có, lãng mạng có, kiểu như “Sinh viên hành khúc” của Lưu Hữu Phước. Đó là lực lượng sinh viên đại học, và ngay cả học sinh trung học như chính Anh những năm 1954, 1055. Anh có thể mô tả hoạt động của lớp thanh niên này?
Đ NY – Đúng vậy, lúc đó có một lực lượng quan trọng không phải thanh niên mà là phong trào sinh viên. Nhưng trong lực lượng sinh viên không phải lúc nào cũng thuần nhất. Có nhiều khác biệt giữa trường này trường kia, vùng này vùng kia. Thực ra, sinh viên đâu có phải là một đoàn thể, một tổ chức.
Phong trào sinh viên ở tại Sài Gòn chia ra hai hệ thống: (1) Hệ thống rất ít ngưoi nhưng rất chọn lọc ở Phú Thọ. Hệ thống Phú Thọ tuy nhỏ như có đến 7-8 trường như trường Công Chánh, Hóa Học, Kỹ Nghệ, Hàng Hải... lấy bằng bốn năm nhưng mỗi năm chỉ có vài ba chục thanh niên, nhưng họ đã thành lập một Hội Đồng Sinh Viên tại đây. (2) Tổng Hội Sinh Viên ở số 4 Duy Tân. Vào thời điểm trước sau 1963 , ở Tổng Hội Sinh Viên cũng có sinh hoạt của mấy ông Phú Tho,ï nhưng dựa vào 7 trường đại học chính ngoài này, đông nhất là ba trưong Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa, những trường ít hơn là trưong Y Khoa, Dược Khoa, và có một trường không thuộc lực lượng nào là trường Kiến Trúc.
Như vậy những trường ở Duy Tân đó cộng với các trường ở Phú Thọ thành một tổ chức sinh viên Sài Gòn gọi là Hội Đồng Sinh Viên 14 đại diện, 14 lá phiếu ngang nhau, tất nhiên là khi bầu cử những ban đại diện do thành phần trường dưới này thắng cử vì lá phiếu phía Duy Tân đông hơn và từ đó cũng tạo nên một mầm mống phân ly. Một năm sau khi đã phát triển và phân hóa thì phía Phú Thọ đi về một phiá, phe Duy Tân đi một phía.
Đến sự phân ly thứ hai là giữa Sài Gòn và miền Trung. Trước đó các tổng hội ở Viện đại học Đà Lạt - Sài Gòn - Cần Thơ – Huế, bốn viện này họp lại thành một Tổng hội quốc gia. Tổng hội quốc gia này làm được hai việc: (1) Đi họp Đại hội Sinh viên Quốc tế nhóm kỳ thứ 9 (?) tại Tân Tây Lan, do ông Lê Đình Điểu và một anh nữa là Vĩnh Kha hay anh nào đó, có thể là anh Hoàng ở Đà Lạt). Sau đó tổ chức một trại sinh viên quốc gia ở Đà Lạt, đã nhận được trụ sở do ông Nguyễn Khánh giao là Trụ sở Số 2 đường Thống Nhất, sau này là trường Cao Đẳng Quốc Phòng. Trụ sở này rộng mênh mông có mấy chục phòng, nhưng chỉ được mấy tháng thì bị lấy lại. Nhưng việc kết hợp giữa Sài Gòn và Huế là hai trung tâm chính bị tan vì ở Huế trở thành phong trào đấu tranh ly khai.
Nói chung, sinh viên, học sinh chỉ là một nhân tố trong phong trào thanh niên. Những nhân tố khác phải kể đến là các Hội đoàn thanh niên. Trong Hội đoàn này còn có hai tổ chức như Thanh niên Chiến đấu (tổ chức sau này giống Nhân dân Tự vệ hay Xây dựng Nông thôn ở cấp quận, các tỉnh) thuộc hệ thống của Tổng Nha Thanh Niên do Ty Thanh Niên tổ chức. Gọi là Thanh niên Chiến đấu vì họ có võ trang. Một nhân tố khác là lực lượng đông đảo là các hội hay đoàn thể tôn giáo, các hội sinh viên như Phật giáo, Công giáo, đại học. Đó là lực lượng có hành động chính trị, nhưng không dùng võ trang mà chỉ đấu tranh như căng biểu ngữ, xuống đường...
PPM- Chúng ta đã nói qua thời kỳ 54-55 đến năm 1963, trong thời kỳ này không có phong trào thanh niên nào rõ rệt, nhưng có một phong trào thanh niên của chính quyền là Thanh niên Cộng hòa, đối với những người sống trong thời đại đó, thì phong trào thanh niên này chỉ có hình thức thôi chứ không thực chất. Nhưng đối với thế hệ sau không rõ, có thể cho đây là một cái gì lớn lao có lý thuết đàng hoàng. Xin anh nói qua một chút để làm sáng tỏ hơn.
ĐNY - Như vậy chúng ta phải kể thêm một lực lượng thanh niên khác nữa, nhưng lực lượng thanh niên này có thì các nhóm kia chưa có, và khi các nhóm khác ra đời thì nhóm này đã chết rồi, đó là các Thanh niên Cộng hòa và Thanh nữ Cộng hòa song song với một phong trào nhân dân khác là Phong trào Phụ nữ Liên Đới của Đệ Nhất Cộng Hòa. Tất nhiên dụng ý của nhà tổ chức rất sâu xa nhưng thực chất thì không có gì cả vì ngay trong ngày 1-11-1963 khi lãnh tụ của họ là Cao Xuân Vĩ kêu gọi họ xuống đường để bênh vực lãnh tụ của chế độ thì không ai xuống đường cả. Và sau đó thành viên của các tổ chức nàyï cũng không bị chế tài gì cả. Thật sự phong trào này đã bị chìm dưới phong trào Ấp Chiến Lược. Những người đi Ấp Chiến Lược thì ai cũng mặc đồng phục và đều được gọi là Thanh niên Cộng hòa cả. Mặc khác những phong trào đó dù không thành công, không tạo ra một thành tích nào đáng kể nhưng nó đã thu hút được một số cán bộ mà những cán bộ của Thanh niên Cộng hòa sau này trở thành ra những đơn vị hoạt động về chính trị trong Quân đội, hay thuộc về các phong trào khác sau này khi có sự phân hóa tại các địa phương.
Phần lớn những người hoạt động thanh niên trong thời kỳ những năm chính của Đệ Nhất Cộng Hòa tức là từ năm 1955 đến 1962 thường là thành phần di cư. Thành phần di cư này gồm ba gốc: Hà Nội, Bùi Chu Phát Diệm, Nghệ Tĩnh Bình. Đặc biệt là Nghệ Tĩnh Bình tuy rằng con số không đông nhưng nó quan trọng vì họ là những ngưoi thân tín của chế độ (giống như quân Thanh Nghệ ngày xưa), vì nhóm này là nhóm ủng hộ ông Diệm đầu tiên nên được tin cậy và được đưa vào nhiều nơi trong chính quyền. Nhưng đến cuối đời của Đệ Nhat Cộng Hòa thì nhiều ngưoi đưa ra thắc mắc về bè phái địa phương, nên ngưoi ta che giấu nguồn gốc của những địa phương ít ngưoi, xa lạ với miền Nam. Trong miền Nam thì bắt đầu có ý thức địa phương, họ bắt đầy xây dựng liên hệ, từ đó đẻ ra phong trào Liên Trường... (Và ngày nay tại hải ngoại ngưoi ta đang làm sống lại phong trào Liên trường, thay vì Liên trường Miền Nam thì là Liên trường gồm tất cả Bắc Trung Nam của Việt Nam Cộng Hòa.)
Như vậy phong trào thanh niên của thập niên 60 bắt đầu năm 63 với việc lật đổ ông Diệm, xuyên qua cuộc đấu tranh bảo vệ Phật giáo. Rồi đến 1964, thành ra phong trào thanh niên sinh viên học sinh là họ tham gia vào đủ mọi vấn đề, từ chính trị đến xã hội đến kinh tế (ủng hộ những ngưoi lao động đình công) v.v...
ĐTB - Lúc đầu anh Yến có nêu lên nhận xét là những sự kiện quan trọng thường xẩy ra vào năm lẻ ở giữa thập niên. Năm 1965 có phải là năm như vậy không, lý do nào khiến phong trào thanh niên sôi động ở năm này, và như thế nào?
ĐNY - Đến năm 65 thì phong trào lớn mạnh vì nhiều lý do:
(1) Về chính trị phong trào thanh niên đã lên tới tột đỉnh vào tháng 9 tháng 10 năm 1964, tức thời gian lật đổ Nguyễn Khánh. Đó là cái lớn nhất của phong trào lúc đó. Cái hiệu quả, cái sức mạnh của phong trào thanh niên đã đạt được năng suất cao nhất qua việc lật đổ này. Nhưng tổ chức chính trị hưởng được thành quả của phong trào lại là Phật giáo. Bằng cớ là đả đảo ông Khánh ở trước cửa trụ sở là sinh viên, mà từ đó xuống đường đi ra đến chợ Bến Thành thì lại là mấy Thầy. Thầy Trí Quang ngồi ở dưới chân tượng Quách Thị Trang. Cho nên tạo ra phản ứng cho Công giáo. Công giáo lại xuống đường tấn công các tổ chức sinh viên, đốt sạch, làm cho phong trào sinh viên mất cái đầu hướng dẫn , rồi đưa đến những vụ đánh nhau ngoài đường ở trường Cao Thắng, trường Nguyễn Trường Tộ, trường Nguyễn Bá Tòng suốt trong hai tuần lễ, đã gây sự hoang mang và khủng hoảng vì đây là cuộc chiến tranh tôn giáo. Rồi từ đó các chính đảng cũng khai thác tình hình để chặn bớt Phật giáo, để các đảng phái khác ra đời, mới đưa ra các chính quyền như chính quyền Trần Văn Hương, chính quyền Phan Huy Quát. Đến lúc trông thấy rằng dân sự chẳng có khả năng gì thì đến lượt Quân đội nhận chính quyền một cách lịch sự. Đầu tiên là quân sự nắm chính quyền rồi giao cho dân sự cuối năm 1964, đến tháng 5 năm 1965 thì ông dân sự lại ôm chính quyền đưa lại cho ông quân đội. Rồi Hội Đồng Lãnh Đạo Quốc Gia, ông Hành Pháp, đẻ ra cái nọ cái kia.. Tất nhiên đằng sau đó cả một sự sắp xếp của ngành ngoại giao của phía đồng minh lớn của Việt Nam là Tòa Đại Sứ Mỹ - chuyện này bây giờ khá rõ không ai còn lạ gì.
(2) Chiến tranh mở rộng, Mỹ vào - Vậy trong thời gian này phong trào thanh niên biến hóa ra sao. Tết năm 1965 (khoảng tháng Giêng), phong trào thanh niên lúc đó đã (1) đi qua khủng hoảng chính trị (suýt nữa nổ bùng với chiến tranh tôn giáo). (2) Nó được chứng kiến chiến tranh Việt Nam leo thang cực độ trong năm 1964 - tuy rằng chưa khai chiến chính thức nhưng tất cả những chuyện trong tương lai đều đã manh nha: bỏ bom Bắc Việt, giao chiến trực tiếp giữa quân đội hai bên, quân đội Mỹ đổ bộ ào ạt lên Việt Nam tăng gấp may lần, đưa đến nền kinh tế tại Việt Nam trở nên xáo trộn. (3) Rồi lại thêm thiên tai lụt lội cuối năm 1964...
Lúc đó “người ta” có những chiến lượïc, chương trình kế hoạch lớn để uốn nắn tình hình, nhưng về phía thanh niên trước mắt có mấy viễn ảnh: (1) chiến tranh sẽ lan rộng, (2) nên khả năng hoạt động của phong trào thanh niên rất giới hạn bởi vì nếu bất thành thì sẽ bị đàn áp, còn thành công sẽ bị lợi dụng để rồi đưa tới những mâu thuẫn khác.
Lúc đó phong trào thanh niên nhận thấy rằng ở trong nước đang có ba nguy cơ: (1) chiến tranh (2) mâu thuẫn tôn giáo (3) sự lấn chiếm miền Nam của phía bên kia. Vì thế hầu hết anh em trong phong trào thanh niên hoạt động tại Sài Gòn đứng trước ngã ba đường: Nếu tiếp tục hoạt động chính trị thì phải dựng lại Tổng hội Sinh viên (vì đã bị đốt cháy); còn muốn tham gia giải quyết chiến tranh thì lúc đó lệnh Tổng động viên đã có tuy chưa nhiều vào đầu năm 1964; còn muốn cách mạng xã hội thì không thể tiến hành trong một nước chiến tranh loạn lạc, và không thể nào chấp nhận được sự cách biệt giữa thành phố và nông thôn... Lúc đó phát khởi phong trào Liên hội Công tác Nông thôn vì ngưoi ta ý thức rằng nông thôn và thành thị xa cách nhau quá, nếu tình hình không thu hẹp lại thì sẽ khủng hoảng lâu dài. Từ những vấn đề trên, phong trào thanh niên phải giải quyết như thế nào đây? Họ đề ra những xu hướng như : hòa giải với nhau, nhóm sinh viên tôn giáo kết hợp với nhau, điều này xuất hiện từ các ngưoi lãnh đạo tôn giáo, thí dụ như đối với Phật giáo đây là đường lối của thầy Thiện Minh chứ không phải của các đoàn trưởng sinh viên Phật tử, bằng cớ là sau đó các cuộc họp đưa đến sự làm việc chung giữa giới trẻ với nhau diễn ra tại trụ sở của thầy Thiện Minh tức trụ sở của Tổng vụ Thanh niên Phật tử (nằm sau lưng cư xá Phục Hưng), sau này thì mang trụ sở về Công Lý. Còn bên Công giáo thì chơi trò thiểu số, tức là họ đi theo chứ không có sáng kiến.




Chương Trình Hè 65

PPM – Năm 1965 cũng là năm ra đời “Chương Trình Hè 65” mà một số chúng mình đều có dính vào. Vậy Chương Trình Công Tác Hè có phải là một cơ hội được tạo ra để “đoàn kết” thanh niên?
ĐNY – Thực ra Chương trình Công tác Hè cho đến bây giờ cũng còn có nhiều ẩn số vì không biết ý niệm lúc đầu ở đâu đưa ra và tiến hành như thế nào, nhưng đại khái là có rất nhiều cuộc thăm dò trong giới thanh niên xem làm cách nào sắp xếp lại lực lượng thanh niên. Tên chính thức của chương trình là “Chương Trình Công Tác Hè 65 – Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh”, sau này người ta quen gọi tắt là Chương Trình Hè 65, Chương Trình Công Tác Hè, ngắn nhất là Chương Trình Hè. Khẩu hiệu của những người thực hiện là làm cách mạng xã hội mà làm một cách bảo thủ, êm dịu tức là làm cách mạng xã hội bằng viện trợ Hoa Kỳ. Lúc khác thì không biết sao nhưng lúc này thì viện trợ Hoa Kỳ rất dễ dàng. người Mỹ đề nghị giúp tài nguyên phương tiện thông qua Đoàn Thanh Niên Chí Nguyện (IVS) của họ. Đoàn Thanh Niên Chí Nguyện này sau trở thành một lực lượng phản chiến thật kinh khủng, nhưng lúc đó mới là lúc bắt đầu, họ lại là đoàn thanh niên theo đưong lối xưa, làm công tác xã hội.
Một tổ chức tư nhân nhận “viện trợ My”õ chắc chắn khiến phía chính phủ Việt Nam theo dõi vụ này, và người ta cho rằng đây là một thí nghiệm hay hay, bằng cớ là sau này ba Bộ đều đứng ra bảo trợ Chương Trình Hè. Lúc đầu không có Bộ nào chịu đứng ra cấp giấy phép hoạt động cho Chương Trình Hè 65, vì thấy nó cũng bất thường, ngoài sức của họ. Nhưng lúc đó có một người chính trị nhất trong chính phủ đã quyết định chuyện cấp giấy phép này nên làm, và làm ngay, đó là ông Trần Văn Tuyên (lúc đó là Phó Thủ Tướng). Khi mà phong trào Công tác Hè tổ chức xong, qui tụ một số huynh trưởng thanh niên thuộc nhiều tổ chức, tôn giáo, bắt đầu cần đi xin giấy phép thì Bộ Xã Hội, Bộ Thanh Niên và Bộ Giáo Dục cũng không cấp, vì người ta không biết phải cấp như thế nào vì có vấn đề nhận tiền thẳng, nhận tiền từ phía Mỹ. Dĩ nhiên là phía Mỹ cũng thu xếp là không đi từ chính quyền Mỹ sang nhân dân Việt Nam mà từ chính quyền Mỹ sang nhân dân Mỹ trước, tức là từ USAID sang IVS, rồi từ IVS rồi mới chuyển sang Chương trình hè, people to people . Phía chính phủ Việt Nam cũng không biết phải làm sao trong lúc chờ đợi ông Trần Văn Tuyên đi vắng. Khi trở về nghe nói chuyện này ông lập tức tiếp xúc ngay và bảo rằng trong vòng 5 ngày hay 1 tuần gì đó thì sẽ có giấy phép, và quả nhiên sau đó có ngay. Vì vậy phải ghi công của ông Trần Văn Tuyên về chuyện này.
Ông Trần Văn Tuyên đã trông thấy vấn đề chính trị, do quyết định của ông mà tự nhiên tất cả phong trào thanh niên được lái vào chiều hướng tích cực và xây dựng, nếu không nó lại đi ra ngoài chỗ khác. Còn Mỹ lúc đó chưa đủ sức mạnh để làm gì hơn. Nếu chuyên này xẩy ra hai năm sau thì lúc đó Mỹ đã có Xây Dựng Nông Thôn. Vụ chương trình Công Tác Hè này xảy ra trong 3 tháng đầu của năm 1965, đến tháng 7 năm 1965 thì ông Johnson mới bắt đầu tuyên chiến. Sau này tôi mới biết là ông Phan Huy Quát có tìm cách liên lạc với mình, cử một công cán ủy viên đến số 41 Phan Đình Phùng, không gặp được ai vì ông ta thấy lúc đó ở trụ sở đông quá không biết ai với ai, không biết liên lạc với ai. Sau này, người được giao chuyện đó kể chuyện lại, là ông Đặng Văn Đệ, vừa qua đời cách đây (Tháng Tám, 1999) chừng hai tháng, là em họ của ông Đặng Văn Sung. Cuối cùng chúng ta chỉ gặp được mỗi ông Đổng lý Bộ Quốc Phòng để đòi cho được danh sách người biệt phái.
ĐTB – Chương trình Công tác Hè chỉ kéo dài 6 tháng, nhưng rõ ràng sau Chương Trình này, chúng ta thấy xuất hiện nhiều hoạt động tích cực, xây dựng khác. Đề nghị anh Yến nhắc lại về những hoạt động thanh niên thời “hậu Chương Trình Hè 65”, và anh có nghĩ rằng Chương Trình Hè 65 là nhân tố tác thành một vài hoạt động sau này?
ĐNY - Bây giờ nhìn lại thì những anh em thanh niên lúc đó coi tất cả những gì làm được chỉ là chuyện có tính cách giản dị thôi, trừ ra vài ba ngưoi khá trưởng thành như ông Tuệ, ông Báu, và một hai ngưoi bên Phật giáo, hay ông Toàn, những người này tương đối là già dặn và kinh nghiệm, biết cân nhắc, họ nhìn sâu sắc hơn. Thực ra phong trào Công tác Hè cũng ngắn ngủi, chỉ có 6 tháng, dựng lên và tan ngay, nhưng từ đó đẻ ra Chương Trình Phát Triển Quận 8. Chương trình Hè 65 xin biệt phái tạm thời về một số anh em. Những anh em này có hai nhu cầu: (1) Khi về thì họ muốn làm việc, nhưng họ không thể làm dưới một đám sinh viên lau nhau, nên họ phải vạch ra một mô thức nào đó làm việc; (2) Họ biết là họ chỉ về có 6 tháng thôi, nên tìm một cơ cấu gì cho vững chắc lâu dài hơn. Chương trình Phát triển quận 8 dùng người liên lạc là Võ Long Triều mà người cho phép là Thủ tướng trẻ lúc đó, ông Nguyễn Cao Kỳ. Đây là sáng kiến của ông Kỳ và sau này ông rất hãnh diện về chuyện đó bởi vì khi Chương trình này thành công, vào cuối năm 1966, khi có phái đoàn Hoa Kỳ sang thi Kỳ đưa đi thăm Chương trình Phát triển quận 8 này.
Từ Chương trình này đã mở ra Kế Hoạch Xây Đời Mới, lan ra thêm hai quận kia và đồng thời giúp cho một số anh em lãnh đạo Chương Trình này trông thấy con đường sinh hoạt dân chủ, tức là họ gia tăng hoạt động trong năm 1966 để ra tranh cử Quốc Hội Lập Hiến năm 1967. Anh em được hai ghế Quốc hội, là ông Nhuận (Hồ Ngọc Nhuận) và ông Minh (Hồ Công Minh). Khi vào chính trị, họ không còn là thanh niên nữa, họ đi theo con đường Liên trường Miền Nam, và đến 1975, đi vào con đường khác. Cánh thứ hai từ Chương Trình Hè. Đây là cánh phát triển ra Chương trình Học Đường Mới, xuất phát do ông Trần Ngọc Ninh, Tổng Trưởng Giáo Dục, mà ra. Ngày lập Chương trình Học Đường Mới là lập ngay trong trụ sở Chương Trình Hè. Sau này đổi Tổng trưởng Giáo Dục, Chương trình này mới đổi thành CPS, tức Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Học Đường. Sau này khi ông Thơ làm Tổng Trưởng, đã đưa ra Hội Tương Trợ Học Sinh Nạn Nhân Chiến Tranh. Nhưng hệ quả quan trọng nhất từ Chương Trình Hè 65 là chuyện đẻ ra Phong Trào Du Ca. Chuyện xây dựng thành Phong Trào Du Ca còn phải đi qua một giai đoạn nữa là khi ông Võ Long Triều, nhân sự thành công của quận 8, ra nắm giữ Bộ Thanh Niên.
PPM – Hồi đó tôi nhớ một người trong số anh em mình được mời tham gia chính phủ Nguyễn Cao Kỳ?
ĐNY – Đúng vậy, và cũng từ đó đưa đến tình trạng phân hóa trong số những huynh trưởng thanh niên. Ông Võ Long Triều được mời nắm Bộ Thanh Niên trong nội các Nguyễn Cao Kỳ. Ông Triều khi nắm bộ thanh niên đã hy vọng là tất cả thanh niên sẽ hợp tác, nhưng điều này không giản dị. Bởi vì lúc đó ông đã làø chính quyền, còn các đoàn thể thanh niên cũng muốn giữ tính cách nhân dân. Người ta lúc đó tin tưởng là ông Toàn (Đỗ Quý Toàn) đã bằng lòng làm Thứ Trưởng rồi, tức là có đủ cả Công Giáo, Phật Giáo. Nhưng ông Toàn đi hỏi ý kiến của các người làm việc với ông. Ông Toàn cũng hỏi ý kiến ông Tâm Châu, nhưng ông Tâm Châu lúc này trong bụng đã chỉ trích chính phủ, không biết ông nói cách nào nhưng ông Toàn hiểu rằng chuyện đó không nên. Vì thế ông Toàn rút lại, ông kia (Võ Long Triều) lỡ bộ, phải lôi ông Hồ Ngọc Nhuận về, như vậy nó có tăng cường cái mặt thanh niên của ông, nhưng lại không có tính cách tất cả, vì lúc đầu hy vọng ông Triều Công giáo, ông Toàn Phật giáo, ông Toàn Bắc kỳ, ông Triều Nam Kỳ thì mới được. Chứ kéo ông Nhuận thì hai ông như nhau thôi.
Còn chính ông Triều khi vào thì hăng hái vào nhưng khi đấu tranh thì lại đứng về phía miền Nam. Bốn ông Bộ trưởng Nam Kỳ cùng đòi hỏi, áp lực ông Thủ tướng một lúc và cùng rút lui từ chức. Khi ông vào Bộ thì hỏi ý anh em nhưng khi ra thì không hỏi, chỉ hỏi trong đảng, nên mọi người (thanh niên) chẳng biết gì hết! Dù sao trong thời gian đó, những người như ông Tuệ (Hoàng Ngọc Tuệ) đi đâu cũng nghĩ đến chuyện huấn luyện, mới đào tạo được một số người thành ra phong trào Du Ca. Có lẽ đây là hệ quả lâu dài nhất sau Chương Trình Công tác Hè. Tóm lại có ba phong trào ra từ đó là (1) giáo dục - đi vào Bộ Giáo Dục, (2) Du Ca thanh niên, (3) đi về phía Cộng đồng, quận 8 , Xây Đời Mới. Những anh em phía cộng đồng đó sau này đi về dân cử. Còn ông Du Ca dựa hơi vào anh thanh niên để phát động lên thành ra phong trào nhân dân. Còn phát triển học đường cũng phát triển theo hệ thống của nó.
Nhưng thật sự thì Chương trình Hè nó có nhiều mặt khác. Mặt kế tiếp là do cái đó mà phát khởi chương trình Đoàn thanh niên Chí nguyện Việt Nam (do Đoàn Thanh Niên Thiện Chí + Phong trào Công tác Hè). Đoàn này sau một năm bị đánh gục ngay vì nó đụng đến vấn đề quân dịch, đào tạo được bao nhiêu người thì bị kêu gọi vào lính hết, và nếu không chết vì quân dịch thì đến nửa năm sau nó thành ra trường hợp Đoàn Thanh niên Công tác Phụng Sự Xã Hội của ông Nhất Hạnh, bị người ta ám sát. Sở dĩ bên kia (Phụng Sự Xã Hội) không bị quân dịch vì họ dùng phụ nữ và người đi tu. Giải quyết vấn đề đó họ mới có thể hoạt động, chưa kể là họ có quần chúng tại chỗ nữa. Nhưng sau này đã xảy ra ba, bốn vụ thảm sát, cái chuyện ám sát đó cũng có thể do mấy ông địa phương vớ vẩn, nhưng chắc vấn đề cũng không giản dị như vậy.
Về phía nhà nước cũng đẻ ra Đoàn Thanh niên Trừ gian. Bên cạnh đoàn thanh niên này họ tuyển ngay một đám chọn lọc để lập Đoàn Thanh Niên Tiến bộ. Đoàn Thanh niên Trừ gian rất tạp nhạp. “Trừ gian” ở đây nói lên công dụng đi làm cảnh sát kinh tế. Còn Đoàn Thanh Niên Tiến Bộ thì giao cho một cơ quan đặc biệt của ông Kỳ là Bắc Bộ Vu. Nhắc lại năm 64 thì có phong trào Bắc Tiến của Nguyễn Khánh do Phạm Đức Khoan gây ra ở Tổng hội Sinh viên. Vừa rồi (1999) Phạm Đức Khoan sang đây kể lại đầu đuôi chuyện đó. Theo ông Khoan, chuyện Bắc tiến đó không có căn bản sâu xa rắc rối gì mà chỉ là những khẩu hiệu đúng lúc thành ra như là sự hù dọa. Mặc dù sau này người ta được biết ngoài Bắc lúc đó nghe Phong trào Bắc Tiến cho rằng là vấn đề lớn, và nghĩ rằng trong này có gì ghê gớm lắm! Nhưng Đoàn Thanh niên Tiến Bộ do Bắc Bộ Vụ làm. Bắc Hội Vụ là do một nhóm sĩ quan trẻ dưới quyền ông Kỳ giao, vừa làm công tác tình báo vừa công tác học vụ, chính trị, văn hóa... Vì ông Kỳ luôn luôn có trong đầu cái mẫu là gây các phong trào trẻ, kinh nghiệm của ông lúc đó là họ đều là những người chịu ảnh hưởng phong trào quân đội trẻ, sĩ quan trẻ của Nasse.
Thời kỳ 64-65 sách của Nasse, kinh nghiệm của Nasse gây hẳn phong trào như vậy mà một trong những người lãnh tụ là ông Đinh Thạch Bích , được kéo về bộ Chiêu Hồi dùng làm chiến khu. Nhóm thanh niên tiến bộ đó cũng có một số tay lãnh đạo khá như Hồng Duyệt, Nguyễn Mạnh Cương (nói chuyện năm 1955 bị bể đầu trên đây). Đến thời 68, đàn em của ông Kỳ bị vụ bom Phước Đức chết gần hết, họ trốn hết không dám ló ra.
ĐTB – Chiến cuộc tại Miền Nam gia tăng mạnh lúc đó, rồi chuyện quân đội Mỹ ào ạt vào, cũng đúng là lúc Chương Trình Hè 65 ra đời để là nhân tố gây dựng nhiều hoạt động khác trong giới trẻ như anh Yến mới mô tả. Anh Yến cũng nhấn mạnh việc ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên quyết định cấp giấy phép cho Chương Trình Hè đã lái hoạt động Thanh Niên vào chiều hướng tích cực xây dựng. Nhưng thực ra tâm trạng thanh niên lúc đó không giản dị chỉ là thực hiện của mình qua công tác xã hội. Họ hàng ngày đụng chạm đến chiến tranh hoặc hệ lụy của chiến tranh như chuyện quân dịch. Từ đó, một số thanh niên đã “vào bưng” để trực tiếp giải quyết vấn đề lý tưởng qua con đường chiến đấu. Xin anh Yến phân tích rõ hơn chuyện này trong toàn cảnh phong trào thanh niên chúng ta.
ĐNY - Đây cũng chính là mặt cuối cùng của phong trào thanh niên tại Miền Nam trước đây.
Trong thời gian này phong trào thanh niên cũng đã lan vào Phong trào Giải phóng miền Nam. Phong trào Giải phóng miền Nam tuy đã có từ năm 1960 nhưng bộ phận thanh niên của nó rất yếu, chưa gây phong trào đi bưng, phong trào đi bưng đến năm 1968 mới có. Nhưng đợt tuyển mộ lớn lao của nó xảy ra năm 1965, năm chiến tranh leo thang dữ dội. Lúc đó tại Sài Gòn khó tuyển mộ thì họ tuyển mộ người ở dưới đồng bằng sông Cửu Long, và những tỉnh như Bến Tre, Biên Hòa và ở miền Trung. Lúc ấy thanh niên miền Trung đi ào ạt vào Sài Gòn: đợt thứ nhất là năm 1965 vì trốn lụt miền Trung, trốn chiến tranh, vào vì tiếng gọi của công ăn việc làm, sở Mỹ... Đợt sau vào vì vấn đề phân ly, vào để đi trốn vì là nạn nhân của các ông lãnh chúa, đó là cánh các anh em Quảng Nam, Quảng Ngãi...như cánh Nguyễn Vạn Hồng nọ kia. Họ là con cháu những cán bộ tập kết, những người theo Mặt Trận Giải Phóng...
Từ đó đưa đến hiện tượng phổ biến là số các nhà trọ cho học sinh ở tỉnh nghèo lên Sài Gòn học tăng lên, trong đó có đám sau này như Huỳnh Tấn Mẫn... Họ đều xuất phát từ các nhà trọ cho học sinh tỉnh. Các nhà trọ này không có bàn ghế gì cả, chỗ này một đống sách, chỗ kia một đống sách, ngồi học thì kê sách lên học. Trong các nhà trọ này có ba thành phần: (1) không đi học chỉ đi làm để nuôi những người đi học (2) đi học - vừa đi học vừa hoạt động (3) là các liên lạc viên - chỉ đi vòng vòng bán bánh mì, lái xe tắc xi. Tất cả đám đó sau này, sau thời kỳ Mậu Thân, đều lộ ra hết. Nếu Mậu Thân không thất bại, đám đó họ sẽ đảo chính tại Sài Gòn và là lực lượng chính chiếm của Sài Gòn. Đêm xẩy ra cuộc tấn công Tết Mậu Thân họ tập họp trong khu Trường Quốc Gia Hành Chánh, mấy hôm trước đã tổ chức Tết Quang Trung. Nhưng công tác phía quân sự không thành công do nhiều lý do, thành ra đám này lập tức chuyển thành ngay ra công tác xã hội, chiếm ngay một vùng để cứu trợ nạn nhân vùng hỏa hoạn, và trở thành nòng cốt của phong trào đấu tranh sinh viên nổ bùng từ năm 1969-1971.
Đó là đám Mặt Trận Giải Phóng. Nhưng ngoài ra phải kể những đám năm 1968 có tham gia hoạt động, nhưng không vào bưng theo Mặt Trận Giải Phóng. Chuyện vào bưng không giản dị, dễ dàng vì không phải thanh niên nào cũng liều mạng như vậy, nên lúc đó họ dựng lên Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình của Trịnh Đình Hảo, Lê Văn Hảo... Kỹ thuật, chiến thuật xây dựng, tổ chức dấn thân từng đợt từng đợt để hoạt động của mấy anh cán bộ cộng sản phải nói là thần sầu, qua những điều học hỏi được của Trung Cộng. Tại sao Trung Cộng yếu hơn phe Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, bị ông ta đánh xính vính, mà nó vẫn phát triển? Vì nó có phương pháp của các nhà tổ chức cách mạng nhà nghề. Còn phe đối thủ, phe chính quyền, không có ai là cách mạng nhà nghề, chỉ có ông quan. Khi trở thành ông quan thì bắt đầu ăn chơi, tham nhũng; chưa thành ông quan thì ổng làm việc không được vì không có quyền hành gì cả. Khi có quyền hành thì anh lại dùng cái quyền để phục vụ phe cánh anh, thành ra guồng máy của anh không hữu hiệu. Còn đám thanh niên hoạt động theo mấy anh cộng sản thì có phương pháp gọi là Mặt trận Liên hiệp. Mặt trận này không phải chỉ thực hiện một lần, mà liên hiệp từng đợt từng đợt, vòng trong vòng ngoài, nên thu hút được giới trẻ ở nhiều cấp độ khác nhau.
PPM – Chúng mình đã nói về thời kỳ 1965 là thời kỳ phần lớn anh em ở đây đều là những người tham dự, là tác nhân. Theo tôi biết anh Yến cũng là chứng nhân, và nếu chúng ta điểm lại một cách qui mô, có tính cách suy nghĩ và có tính cách phê bình thì chúng ta làm “sử gia” cho thời kỳ đó, ít nhất là trong lãnh vực hoạt động thanh niên. Xin anh Yến cho một cái nhìn tổng kết về phong trào thanh niên của đất nước ta.
ĐNY - Để cho nó có chiều sâu như kiểu không gian đôi ba chiều đó, thì từ 1965, chúng ta có thể nhìn trở lại một thế hệ, tức là vào 1945, tức là năm quan trọng nhất trong thế kỷ này của lịch sử của người Việt Nam. Chuyện năm 45 mỗi thời nhìn lại thì càng phong phú, càng đa dạng, sự hiểu biết có thể bớt đi phần chua chát của một thành phần nào đó không có được cái kết quả hiển nhiên; với lại có được thêm những đóng góp của các sử gia của Đông Nam Á, của Mỹ, của Pháp, bây giờ người ta đang nhìn lại những năm lịch sử đó.
Một khi chúng ta nhìn lại được hai thế hệ liên tiếp của 45, 65 và cũng bằng một phương pháp như vậy và trên cái bước đường ôn lại chuyện cũ, chúng ta có thể đi vào hai thế hệ sớm hơn, tức là 1925 với sự kiện như đám tang cụ Phan Chu Trinh, hay là vụ sử án cụ Phan Bội Châu, hay là thời kỳ lớn lên của những người trẻ như Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học. Đó là thời kỳ mà ông Hồ Hữu tường đặt cho cái tên là Loss Revolution. Cuối cùng ta có thể dễ dàng đi vào một thế hệ trước đó, tức là thời kỳ 1905, khi mà giới thanh niên trí thức Việt Nam, mà chúng ta hay gọi là sĩ phu, bắt đầu nhìn tới những giải pháp lâu dài cho Việt Nam mà không phải chỉ giới hạn trong hai phạm vi Văn Thân, Cần Vương của thế kỷ 19 nữa. Bắt đầu từ 1905, người Việt Nam bắt đầu có cái kinh nghiệm gọi là kinh nghiệm quốc tế, trước là với Nhật, sau là với Trung Quốc...
Ngoài 4 thế hệ đó, chúng ta cũng cần lưu ý một thế hệ thanh niên khác là thế hệ 1985. Đó là thế hệ mà thanh niên hải ngoại muốn làm một cái gì đó, và thanh niên trong nước thuộc thế hệ lớn lên sau chiến tranh với những mối quan tâm khác với thế hệ trước, không còn là quan tâm về thống nhất mà mối lo lắng nhất là làm sao phát triển kinh tế ở trong nước. Nhưng phần sau này (thanh niên trong nước) thì mình cũng khó mà biết được vì mình xa đất nước quá.
Nói chung là trong thế kỷ 20 chúng ta có 5 thế hệ thanh niên như vậy.
Tổng kết về Phong Trào Thanh Niên Thập Niên 1960
ĐTB – Như anh Minh nói, chúng ta cũng có phần tác động ít ỏi nào đó trong giai đoạn 1965. Anh Yến còn là chứng nhân của nhiều biến cố. Đề nghị anh Yến cho một cái nhìn phân tích về phong trào thanh niên giai đoạn này.
ĐNY - Trước hết, chúng ta bắt đầu kể từ năm 1963, rồi phăng dần đến năm 1965. Tại sao chúng ta phải đi đến 3 năm như vậy? Trước hết, vì năm 63, cuộc đấu tranh của lớp thanh niên thập niên 60 mới bắt đầu, với phần kết thúc của nền đệ nhất Cộng hoà. Năm 63 là phong trào chính trị, năm 64 có thể nói là phong trào đủ mọi mặt hết, và là cuộc thử nghiệm lớn nhất của giới trẻ VN, có thể nói là còn lớn hơn hồi 45 nữa vì mọi việc đều đổ vào giới trẻ. Hồi 1945, giới trẻ chỉ là một thành phần bên nhiều thành phần khác như thiếu nhi, phụ nữ, bà già... tất cả cùng làm chung công việc cứu quốc, còn thời kỳ 64 thì giới trẻ thành phố được kích thích, được trắc nghiệm nhiều nhất. Do kết quả đó, mà năm 1965 đẻ ra mấy con đường, con đường nào cũng đi sâu xa hết, con đường xã hội, con đướng chính trị, kin tế, quân đội,... và kết quả của nó thì đến năm 68 hiện ra với tất cả những lừa dối, những phân hoá,... Năm 68 cũng là năm của giới trẻ thế giới nên chúng ta cũng có cơ hội để đối chiếu hai khung cảnh giới trẻ trong nước và giới trẻ thế giới như Âu Mỹ, như ở Pháp...
Ngoài chuyện bắt đầu từ 1963 rồi đi đến 1965, chúng ta cũng đã phân tích năm 65 đi ra 3 mặt, mặt văn hoá, chính trị, và kinh tế xã hội. Vậy thì hôm nay, chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn. Riêng trong năm 65, sau đây là những biến cố chính chi phối sâu xa phong trào thanh niên:
Trước hết năm 1965 đã hưởng mọi xáo trộn hạng nhất của năm 64. Vì sao năm 64 xáo trộn nhiều nhất? Vì đệ nhất cộng hoà vừa chấm dứt, chúng ta không còn nói đến “cách mạng” nữa, mà chuyện đảo chính thì quá xơ sài. Năm 64 trắc nghiệm khá nhiều mặt cho hoạt động thanh niên, nên năm 65, giới thanh niên trực diện với nhiều sự đánh giá, và phải làm cái công việc chọn lựa rất là quyết định, sau khi chọn lựa thì không thể lùi được nữa. Chỉ có năm 65 là có sự chọn lựa, sau 65 không còn chuyện chọn lựa, trước 65 thì cũng không có cơ hội chọn lựa. Đầu năm 65, phong trào giới trẻ VN vừa trải qua hai chuyện, thứ nhất là vừa lật đổ một chế độ quân phiệt, qua việc chống Hiến Chương Vũng Tàu của tướng Nguyễn Khánh, biến cố đó có cao điểm là 25 Tháng Tám, 64; thứ hai là giới trẻ ồ ạt đổ vào việc cứu trợ nạn lụt miền Trung, với sự tiếp tay của Phó thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh lúc đó. Hai biến cố, hai phong trào tuy ngắn, nhưng bổ túc nhau, soi sáng nhau. Nhưng còn một mặt thứ 3, không rõ ràng bằng hai biến cố trên, nhưng lại quyết định quan trọng hơn, tức là sự gia tăng việc có mặt của quân đội Mỹ tại Việt Nam, từ cuối 64, đến đầu 65. Sự gia tăng này có tài liệu, có con số, ... và mình sẽ tính đến sau, nhưng rõ ràng là quan niệm cổ điển về tổ chức quân đội Mỹ, với việc đưa quân ồ ạt vào, khiến họ phải đặt ra những kế hoạch từ 6 tháng tới 1 năm để tạo cơ sở vật chất cũng như tiện nghi tại địa phương. Như thế, chính sách Mỹ đã rõ ràng từ 64 chứ không chờ đến giữa 65, và theo lịch sử, đó là ngày TT Mỹ Johnson đọc diễn văn tại trường đại học John Hopkins vào Tháng Bẩy, được coi là bài diễn văn đánh dấu sự tham chiến của Mỹ tại chiến trường miền Nam cũng như tại không phận miền Bắc. Sự sẵn sàng của Mỹ trong thời gian này, tất nhiên nặng về quân sự, nhưng cũng cần liên hệ tối đa chính trị để bố trí cho quân sự. Trong việc bố trí chính trị, thì phải có dính dáng đến phong trào trẻ.
Có lẽ người ta cũng phải đứng trước mấy cái chọn lựa để hướng dẫn phong trào trẻ. Thứ nhất là làm sao hướng dẫn các hoạt động trẻ sao có thuận lợi cho cuộc chiến tranh hơn, thay vì gây xáo trộn chính trị tại thàng phố, mà nó củng cố cho việc ổn định tại Sài Gòn. Thứ hai, không gây trở ngại cho sự gia tăng quân số, và Thứ Ba là chuẩn bị tài nguyên cho sự gia tăng nhân sự cho cuộc chiến tranh sắp tới, tức là vấn đề động viên, vấn đề tài nguyên chiến tranh. Về các điều kể trên, hiện chưa có tài liệu nào rõ ràng để chúng ta có thể nói một cách chắc chắn như vậy, nhưng mà về phương diện suy luận, kinh nghiệm, thì có thể chấp nhận những điều đó. Có những sự tính toán đó mới xẩy ra việc phối hợp giữa những nhóm trẻ chính thức, lớn lao, với sự phối hợp của nhà nước, kể cả sự hỗ trợ của phái bộ Mỹ tại Việt Nam, do đó phát sinh ra chương trình thanh niên lớn nhất trong năm 65 là Chương Trình Công Tác Hè.
Chương Trình Công Tác Hè đã là cái cớ để tụ tập nhân sự, để huấn luyện về leadership, về tổ chức sinh hoạt..., để nhận diện những tổ chức nhân sự cũng như thiết lập các mối tương quan giữa các nhóm trẻ thuộc các bộ phận tôn giáo, nghề nghiệp, địa phương. Đó là việc lần đầu tiên được đặt ra vì thời đệ nhất Cộng Hoà, việc đó không có hoặc bị giới hạn, ngoại trừ thanh niên công hoà... Đến bây giờ giới trẻ mới được kết tụ với nhau, mà cũng không phải do giới trẻ mà do các chính trị gia của các đảng phái, phong trào, giáo dụ, các chuyên gia, các cố vấn Mỹ. Do đó, cái hay của việc tụ hợp giới trẻ đầu năm 65 có tính tích cực của nó, tính cách thí nghiệm vào môi trường mới; nhưng cái dở của nó là nó bị động do những tính toán của các nhà làm kế hoạch, từ Bạch Cung tới dinh thủ tướng, các đảng phái ở Sài Gòn... Tất cả những tính toán đó trộn lại trong một trò chơi lớn mà thanh niên tham dự. Thanh niên bắt đầu hiểu thế nào là chính trị, thế nào là ngoại giao.
Còn một yếu tố nữa, yếu tố thứ tư, cũng là điều khó có thể xác định được rõ ràng, bởi vì có những người nắm được những cái nhìn rất rõ ràng nhưng không ở trong tư thế để có thể bầy tỏ một cách thẳn thắn, nhưng rồi cũng là vấn đề thời gian thôi, nó sẽ cho thấy đường lối đấu tranh vận của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mà vào thời gian đó càng ngày càng có sự điều khiển trực tiếp phát xuất từ Hà Nội.
Ngay trong Tháng Hai của 1965, đã có một cuộc đụng độ giữa phong trào trẻ có lập trường của Miền Nam, với lực lượng trẻ xâm nhập do MTGPMN tổ chức. Việc này xẩy ra ngay trong trụ sở CTCT Hè, diễn ra trên hai bình diện, thứ nhất là trên số báo Lên Đường, cơ quan ngôn luận của CTCT Hè; thứ hai là trong mặt sinh hoạt chìm của toán sinh hoạt của chương trình. Chuyện thế này: Thời kỳ này, tại Mỹ xẩy ra một kinh nghiệm đặc biệt là biến cố ở xứ Cộng Hoà Dominique. Tổng thống Mỹ cho Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ can thiệp, và đó là cơ hội cho phe thân cộng đả phá trên mặt báo Lên Đường, qua những tin tức và những bình luận. Tất cả chuyện này thực hiện do một số anh em ở ngay tại trụ sở. Người viết bài này và điều khiển chiến dịch này trong tờ báo lên đường, vài năm sau, tức là năm 68, xuất hiện trong số những người trong chính phủ của Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam, thí dụ như Lê Hiếu Đằng, Cung Nhật Tân. Họ hoạt động xuyên qua bộ phận của Nguyễn Hữu Thái là Phó TTK ngoại vụ của Chương Trình Hè, phụ trách tờ Lên Đường.
Sự việc xẩy ra cho thấy sự tích cực, túc trực sẵn sàng của những anh em bênh Mặt Trận Giải Phóng trong Chương trình Hè. Đó là bằng cớ cho thấy mặt khác của sinh hoạt của CTCT Hè, là nó thu hút phần nổi của tất cả mọi nhóm. Sau đó, tuần tự mỗi tháng có một biến cố khác, không lớn như biến cố trên, nhưng cho thấy những phe phái trong tổ chức đó. Mỗi phe phái này đều lợi dụng sự thành hình của Chương trình với tất cả sự thuận tiện, không khí, để phát huy đường lối của họ về thanh niên, chính trị. Thí dụ họ phát huy về tổ chức, về tuyên truyền, phát huy về địa phương.
Ba tháng sau, xẩy ra sự chuyển tiếp giữa chính phủ dân sự và quân sự. Lần này sự chuyển tiếp là do việc xung đột giữa hai vị lãnh đạo dân sự lúc đó là Thủ Tướng Phan Huy Quát và Quốc trưởng Phan Khắc Sửu. Hai vị này đề nghị quân đội nắm lại quyền hành. Chuyện chuyển giao quan trọng như vậy mà phong trào giới trẻ không hề có phản ứng, cho thấy sự khác nhau một trời một vực với phong trào thanh niên trước đó 5, 6 tháng đã chống đối quân sự. Biến cố ngày 19 Tháng Sáu mà bây giờ chúng ta gọi là ngày quân lực, với việc tướng Nguyễn Cao Kỳ lập chính phủ gọi là chính phủ của người nghèo, thì không có một hành động nào của giới trẻ.
Có vậy chúng ta mới thấy vai trò quan trọng như thế nào của thanh niên thời gian trước đó, và mới thấy bây giờ phong trào đã lui thế chính trị như thế nào, chấp nhận hiện trạng, đã thoả hiệp với chính quyền như thế nào, để thấy phong trào đó không còn tin tưởng ở khả năng lật đổ, đúng hơn không tin tưởng hy vọng lật đổ, không can thiệp vào công việc của chính phủ trung ương. Họ muốn giữ phong trào trong tay họ để họ có thể đi vào chiều sâu của những công tác, và để công chuyện chính trị quân sự trong tay các người trách nhiệm, mà việc này cũng là kết quả sự sắp đặt của toà đại sứ Mỹ.
Cái chuyển biến về quân sự Tháng Sáu 65 là chuyển biến cần thiết, vì lúc đó việc đổ bộ quân Mỹ vào VN chính yếu đã hoàn thành xong, việc đổ bộ vào Miền Trung, đặc biệt là Đà Nẵng, đã được tiến hành. Sau này chúng ta có dịp phỏng vấn ông Bùi Diễm, lúc đó là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng của ThT Phan Huy Quát, đã kể lại người Mỹ tránh đưa quân vào một cách trực tiếp do bài học thời Ngô Đình Diệm. Nếu đặt vấn đề ra sẽ đụng vào truyền thống hăng hái bài ngoại, nghi ngờ sự có mặt quân đội ngoại quốc của người Việt Nam sau kinh nghiệm với Pháp. Thứ đến là những người dù ủng hộ sự có mặt của quân đội Mỹ thì cũng biết là sự có mặt của Mỹ sẽ gây ra phản ứng bất lợi. Do đó. người Mỹ đã kín đáo đưa quân vào với lý do để bảo vệ các cơ sở, các căn cứ, tàu bay,... Mỹ chứ không phải để chiến đấu. Bây giờ chúng ta được biết đó là kế hoạch đổ quân. Kế hoạch đổ quân đã được giải quyết ổn thoả với chính phủ dân sự. Còn kế hoạch kinh tế, về xã hội, thanh niên thì kể như bố trí xong chiến trường, bây giờ giao lại cho quân sự để có thể tiến hành kế hoạch quân sự.
Trong hai biến cố vừa kể, biến cố người Mỹ lặng lẽ đưa quân vào với lý do ngắn hạn và cụ thể chứ không trịnh trọng như thời ông Diệm (TT Kennedy vừa đưa thư, vừa cử ông Phó TT Johnson đến nói chuyện trực tiếp với TT Diệm. Nói chuyện một lần chưa được, lại yêu cầu nói chuyện lần thứ hai, lần thứ ba, rồi dây dưa, rồi TT Diệm câu thời gian bằng cách gửi thư qua Mỹ, giao cho Bộ trưởng phụ tá Quốc Phòng mang qua, với lời đề nghị thay vì đưa quân Mỹ vào Việt Nam thì tăng quân số VN thêm vài trăm ngàn. Người Mỹ lại phải thoả hiệp bằng cách thoả mãn một phần đề nghị của VN. Sau đó cả ông Kennedy và ông Diệm đều biến luôn, nên thời kỳ Johnson người ta đi khéo léo hơn). Biến cố này khiến Phong trào giới trẻ năm 65 khi thành hình đã phải chịu hai hậu quả: Thứ nhất là nó lặng thinh trước việc quân Mỹ vào VN, thứ hai là lặng thinh trước việc trao quyền hành từ dân sự qua quân đội. Đó là cái giá phải trả cho phong trào nhưng nhờ vậy mà có phong trào thanh niên làm được những việc khác như tập họp người, tập lãnh đạo, tập điều khiển, chi phối vào các sinh hoạt khác như về văn hoá, xã hội và nông thôn. Thí dụ điển hình là phong trào Tâm Ca, đã không thể thành hình nếu không có phong trào thanh niên. Phong trào Tâm Ca vừa là người hưởng thụ từ phong trào thanh niên, vừa là người tác động ngược lại phong trào này. Rồi đến sinh hoạt xuất bản trong giới trẻ. Một điểm nữa quan trọng là cơ hội mở mắt cho giới trẻ về nông thôn, họ đi về các tỉnh, quận, làng xã, tiếp xúc thảo luận với các cấp chính quyền. Họ được bắt tay vào các dự án nhỏ bé như đào giếng, bắc cầu, tổ chức lớp học, tới những việc to hơn như điều động vài trăm người từ những khoảng cách hàng trăm cây số cho các trại. Đó là cơ hội cho thanh niên có thể nói cũng giống như hồi năm 45.
Phần chót có thể nói về giai đoạn này là mối đe doạ xung đột giữa 3 cái trục: trục Phật Giáo - Công Giáo, trục Dân sự - Quân sự, trục Nam - Bắc, thì nhờ sự kết hợp trong phong trào này mà tránh được. Ngoài ra, do những tiếp xúc, trao đổi giữa các thành phần trẻ tiêu biểu của mỗi nhóm trong phong trào này mà giới trẻ học tập được cái lối làm việc, bàn bạc, và lần đầu tiên họ học được cái trò chơi chính trị, tức là trò chơi thoả hiệp, chia sẻ ảnh hưởng, chia sẻ ghế, hay là chia sẻ cảm tưởng, tạo những mối liên hệ cá nhân, tránh những xung đột do kích động tình cảm vốn xẩy ra những năm trước đó. Nhờ những mối liên hệ đó, suốt thập niên sau này, taọ ra những điều kiện lãnh đạo mới, là một đầu tư lâu dài về lãnh đạo, kéo dài cho đến cả sau 75. Có thể nói giới trẻ năm 65, với tất cả những thiện chí, những ngây thơ với sự dè dặt, với tất cả những thành công cũng như thất bại chua cay, đã tạo cho lớp trẻ 65 thành lớp trẻ già dặn nhất, đa dạng nhất để sau này có thể đóng góp vào việc phát triển quốc gia.
Tóm lại, hai lớp trẻ 45 và 65 là quan trọng nhất trong khung cảnh toàn bộ phong trào thanh niên do những đóng góp, những tác động vào xã hội.